Có khá nhiều loại chỉ số với nhiều phương pháp đo lường khác nhau (như đã trình bày ở các phần trước), do đó, nếu không tinh ý, chúng ta dễ bị lạc vào mê hồn trận này. Nguyên tắc là khi tham khảo chỉ số, người dùng cần “liệu cơm gắp mắm”, xem xét nhu cầu của mình mà lựa chọn chỉ số phù hợp. Tựu chung, các loại chỉ số tạm được gom lại thành 3 nhóm chính để người dùng tùy nghi sử dụng.

Nhóm các chỉ số mang tính chỉ báo (indicator) là thước đo của thị trường. Nhóm chỉ báo nhằm mục đích cung cấp thông tin về diễn biến của thị trường, thường là các loại chỉ số đại diện (representative index), chỉ số ngành (sector index), chỉ số chuyên đề (thematic index), chỉ số theo kích cỡ (size index), chỉ số theo loại (style index).

Nhóm các chỉ số khả doanh (tradable) được thiết kế đặc biệt cho phép các nhà đầu tư dể dàng đầu tư theo đúng như chỉ số đó. Các chỉ số này cũng có thể là chỉ số đại diện, chỉ số ngành hay bất cứ loại chỉ số nào, miễn là chỉ số đó đã xem xét đến các yếu tố cho phép nhà đầu tư kinh doanh được theo chỉ số. Chỉ số VN30 là một ví dụ điển hình cho loại chỉ số khả doanh hạn chế cho nhà đầu tư trong nước vì chúng không xem xét đến giới hạn đầu tư cho phép dành cho nhà đầu tư nước ngoài.

Nhóm chỉ số cao cấp hơn chính là các chỉ số đầu tư (investable index). Chúng được thiết kế dành riêng theo đúng yêu cầu của nhà đầu tư nhằm để đo lường hiệu suất của chính danh mục đầu tư, thường là các chỉ số tùy chỉnh (custom index). Điển hình cho trường hợp này là các chỉ số quỹ ETF. Các quỹ đầu tư theo chỉ số thường được gọi là ETF (Exchange Traded Fund). Họ lập danh mục và mua bán cổ phiếu theo đúng với chỉ số quỹ ETF mà họ theo đuổi. Độ biến thiên chỉ số quỹ ETF cũng chính là hiệu quả đầu tư của quỹ ETF. Theo thống kê của trang IndexUniverse, trên toàn thế giới có hơn 1479 chỉ số quỹ ETF. Đây cũng chỉ là con số tượng trưng, số lượng thực sự còn nhiều hơn thế.

Các chỉ số tùy chỉnh đang là trào lưu trong thế giới chỉ số ngày nay. Chúng giúp các định chế tài chính định lượng hóa thị trường hoặc danh mục đầu tư cần theo dõi, bao gồm việc tạo ra các mô hình, kiểm tra hiệu quả và duy trì chúng. Chỉ số tùy chỉnh là cơ sở cho việc xây dựng nên các quỹ đầu tư thụ động theo những mô hình toán học hay chỉ đơn thuần là đo lường hiệu quả các danh mục đầu tư phức tạp. Theo thông lệ, các nhà tạo lập chỉ số thường xây dựng luôn chỉ số tùy chỉnh thành nhiều loại ngoại tệ phổ biến để giúp các nhà đầu tư quốc tế dễ dàng đo lường hiệu suất hay giúp chủ sở hữu chỉ số dễ dàng quảng bá các danh mục đầu tư của mình ra với thế giới.

Lê Hoàng Nhi

theo vf