Lược trích theo MARK TIER.
http://huynhtanthue.blogspot.com/


Đầu tư chứng khoán là một hành trình cực kỳ chông gai và khó khăn, nhưng lại ẩn chứa những đặc tính vô cùng hấp dẫn. Để hướng đến đỉnh cao của thành công chắc hẳn mỗi chúng ta đều ý thức một cách nghiêm túc về công việc đầu tư này. Đó cũng là một hành trình, một cuộc chiến liên tục để hoàn thiện bản thân từ sâu thẳm trong tâm thức. Và để bắt đầu không ai trong chúng ta, không mất những sai lầm, những sai lầm đôi lúc dại dột và nhiều khi lặp lại. [ Huỳnh Tấn Thuế]

Có 7 sai lầm thường gặp nhất trong lĩnh vực đầu tư. Trên con đường thành công của các nhà đầu tư bậc thầy như Warrent Buffett và George Soros không bao giờ xuất hiện những sai lầm này. Vậy để loại bỏ chúng trong hoạt động đầu tư, trước tiên chúng ta cần xem xét chúng sai ở điểm nào.

Sai lầm thứ nhất: Tin rằng việc dự đoán động thái của thị trường sẽ mang về những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Thực tế: Các nhà đầu tư, kế cả những người thành công nhất cũng không hề giỏi hơn bạn trong việc dự đoán thị trường.

Vào thời điểm tháng 10 năm 1987, Grorge Soros đã xuất hiện trên bìa tạp chí Fortune với thông điệp sau:

Việc các cổ phiếu Mỹ liên tục tăng giá và vượt ra khỏi những ước tính cơ bản về giá trị không có nghĩa là sau đó chúng phải tụt dốc nhanh chóng. Thị trường được định giá quá cao không có nghĩa là không bền vững. Nếu muốn biết cổ phiếu cũa Mỹ có thể được định giá cao đến mức nào, bạn hãy nhìn vào nước Nhật”.

Trong khi vẫn nói về tình hình tăng giá các loại chứng khoán Mỹ, ông lại linh cảm về một sự sụp đổ sắp xảy… ở Nhật. Sau đó, vào ngày 14 tháng 10 năm 1987, ông lại còn nhắc lại quan điểm này trên tờ Financial Times.

Chỉ một tuần sau thôi, Quỹ Qualantum của Soros bị thiệt hại hơn 350 tr USD khi thị trường chứng khoán của Mỹ ( chứ không phải của Nhật) sụp đổ. Lợi nhuận cả năm đã lặng lẽ ra đi chỉ trong vài ngày.

Qua sự việc này, Soros đã thừa nhận:

Thành công về tài chính của tôi đối lập hoàn toàn với khả năng của tôi trong việc dự báo thị trường”

Còn Buffett thì sao? Ông hoàn toàn không quan tâm đến việc thị trường sẽ đi về đâu và cũng chẳng có chút hứng thú nào về với các dự báo. Đối với ông thì việc “ dự báo trước có thể tiết lộ nhiều điều về người dự báo, chứ không cho biết gì về tương lai sắp đến”.

Các nhà đầu tư thành công không bao giờ bỏ vốn nếu chỉ dựa vào những thông tin dự báo về các động thái kế tiếp của thị trường. Trên thực tế, Buffett và Soros là những người đầu tiên khẳng định rằng nếu họ phụ thuộc vào các dự báo về thị trường, thì chắc chắn họ đã phá sản từ lâu.

Sai lầm thứ hai: Đặt trọn niềm tin vào các chuyên gia tư vấn” do tuân theo suy nghĩ : “ Nếu tôi không thể dự đoán thị trường thì sẽ có người làm được điều đó, và tôi chỉ cần tìm cho ra người này”.

Thực tế: Nếu thực sự bạn có thể dự đoán tương laii, liệu bạn có leo lên nóc nhà và hét toáng cho mọi người biết về khả năng kỳ diệu đó không? Hay bạn sẽ giữ kín thông tin đó rồi mở một dịch vụ môi giới nhằm tìm kiếm được một số tiền kếch xù từ những người mình biết được?

Khi đưa ra dự đoán về “ một vụ sụp đổ sắp xảy ra trên thị trường chứng khoán” Elaine Garzarelli cũng chỉ là một trong số hàng ngàn chuyên gia xử lý số liệu ở New York. Điều đáng nói là dự báo này đưa ra vào ngày 12 tháng 10 năm 1987, chỉ một tuần trước “ Ngày thứ hai đen tối”, ngày mà chỉ số của sàn giao dịch Chứng khoán New York giảm 22%.

Thế là chỉ trong phút chốc Elaine Garzarelli trờ thành một nhân vật nổi tiếng và được nhắc liên tục trên các phương tiện truyền thông, chỉ trong vài năm bà đã kiếm được một gia tài lớn nhờ tiếng tăm của mình.

Phải chăng Elaine Garzarelli đã làm giàu bằng cách thực hiện các thương vụ đầu tư theo đúng như những gì bà đã khuyên người khác? Không phải đâu sau sự kiện kể trên bà trở thành một chuyên gia tư vấn có mức lương cao nhất nước Mỹ và thành lập một Quỹ hỗ tương với số vốn ban đầu 700 tr USD.

Tuy nhiên, đến năm 1994, các cổ đông đồng ý giải thể Quỹ Hỗ tương này với lý do hiệu quả hoạt động của Quỹ thấp đến mức không thế chấp nhận được, với mức bình quân 4.7% năm so với5.8% của chỉ số S$P 500. Trong số 14 dự báo của bà trên tờ Wall stress Journal, Business Week và The New York Times chỉ có 5 dự đoán là chính xác với xác suất 36%.

Đó chính là lý do tại sao Buffett, Soros và những nhà đầu tư bậc thầy khác biết đến các vụ đầu tư tiền bạc, nhưng hiếm khi họ nói về những việc mình đang làm hoặc những điều họ suy nghĩ về thị trường.Thậm chí, họ còn rất hiếm khi nói cho các nhà đầu tư của mình biết về những dự định và hành động của họ đối với số tiền của các nhà đầu tư đó!

Sai lầm thứ ba: Tin rằng “thông tin nội gián” sẽ đem lại nhiều cơ hội thành công nhất.

Thực tế: Warren Buffett được xem là nhà đầu tư giàu nhất thế giới. Các bí quyết đầu tư của ông thường được công bố trong các báo cáo hằng năm của công ty. Bất cứ nhà đầu tư nào cũng có thể tiếp cận và tìm hiểu về những bản báo cáo đó để tự giải đáp thắc mắc về thành công của ông.

Dựa vào danh tiếng và uy tín sẵn có của mình thì cả Warren và Soros đều có thể tiếp cận với những người có địa vị cao trong giới tài chính, kinh doanh và cả các nhân vật quan trọng trong xã hội. Tuy vậy, khi mới bước chân vào lĩnh vực đầu tư, họ chỉ là những người bình thường và không nhận được bất kỳ sự đón tiếp đặc biệt nào. Mặt khác, tiền lại đầu tư của Buffett và Soros vào thời điểm khi họ còn chưa được nhiều người biết đến lại cao hơn hiện nay. Vì thế, việc trông chờ vào nguồn thông tin nội gián dưới bất kỳ hình thức nào đều không giúp ích gì nhiều cho các nhà đầu tư.

Buffett cũng nói “ Với một triệu USD và đầy đủ những thông tin nội gián cần thiết, bạn có thể trở nên khánh kiệt chỉ trong vòng một năm”.

Sai lầm thứ tư: Đa dạng hóa danh mục đầu tư.

Thực tế: Có thể nói rằng khối tài sản khổng lồ mà W.Buffett đang sở hữu hiện nay bắt nguồn từ việc xác định một vài công ty tiềm năng, rồi chỉ tập trung đầu tư vào những công ty ấy mà thôi.

Theo George Soros, điều quan trọng không phải là việc bạn hiểu đúng hay sai về thị trường, mà chính là số tiền bạn có được khi thực hiện suôn sẻ một thương vụ, và số tiền bạn mất đi khi tính toán sai.

Nguồn gốc thành công của Soros cũng giống W.buffett, nghĩa là lợi nhuận thu được tư những vụ đầu tư sinh lời bù đắp số tiền bạn thất thoát trong các vụ đầu tư khác.

Trong khi đó, sự đa dạng hóa là một hành động trái ngược hoàn toàn, bởi vì việc có nhiều cổ phần nhỏ, cho dù tỷ lệ lãi suất lớn, thì tổng số vốn của bạn cũng chỉ có thể thay đổi rất ít.

Tất cả những nhà đầu tư thành công lớn đều sẽ bảo với bạn rằng đa dạng hóa danh mục đầu tư là trò chơi dành cho những kẻ tầm thường và nhút nhát. Nhưng chắc chắn đây không phải là thông điệp bạn nghe được từ các chuyên gia tư vấn tài chính của bạn.

Sai lầm thứ 5: Tin rằng phải chấp nhận rủi ro lớn mới thu được nhiều lợi nhuận.

Thực tế: Giống như các doanh nhân vừa khởi nghiệp, những nhà đầu tư thành công thường có tâm lý ngại rủi ro, vì thế họ luôn cố gắng làm đủ mọi cách để hạn chế rủi ro và giảm thiểu thất thoát.

Những doanh nhân khởi nghiệp thành công là những người chống lại các quyết định mang tính rủi ro, và các nhà đầu tư thành công cũng vậy. Biết phòng tránh rủi ro là điều kiện cần thiết để tích lũy và nhân thêm của cải. Thực tế chứng minh rằng, nếu bạn chấp nhận rủi ro lớn thì nhiều khả năng bạn cũng đang tạo ra nguy cơ nhận lãnh những tổn thất khổng lồ.

Cũng giống như các doanh nhân lúc khởi nghiệp, các nhà đầu tư thành công hiểu rất rõ rằng, mất tiền bao giờ cũng dễ hơn kiếm được tiền. Đó là lý do tại sao họ lại chú trọng việc phòng tránh rủi ro hơn là săn đuổi lợi nhuận.

Sai lầm thứ 6: Đặt trọn niềm tin vào “hệ thống đánh giá”, nghĩa là cho rằng phải dựa vào một số phương pháp để phân tích chi tiết hay sơ bộ các dữ liệu để đảm bảo lợi nhuận cho đầu tư.
Thực tế: Đây là một hệ quả tất yếu của việc tin vào các chuyên gia tư vấn”. Nếu nhà đầu tư có thể thực hành theo hệ thống phân tích của chuyên gia tư vấn, thì chắc hẳn anh ta sẽ thu được nhiều tiền như chuyên gia này đã nói.
Căn nguyên của việc đặt niềm tin vào “chuyên gia tư vấn” và hệ thống phân tích đều giống nhau ở chỗ nhà đầu tư luôn mong muốn có một điều gì đó chắc chắn.
W.Buffett từng trả lời câu hỏi liên quan đến một trong những cuốn sách viết về ông như sau: “ Các nhà đầu tư luôn tin tưởng vào hệ thống phân tích bởi họ đang đi tìm một công thức để thành công”. Họ hi vọng khi tìm ra công thức đúng, khi đó tất cả những gì họ cần làm là chỉ cần đặt nó vào máy tính và theo dõi số tiền sinh sôi nảy nở từ các vụ đầu tư.

Sai lầm thứ bảy: Tin rằng bạn hoàn toàn biết rõ tương lai sẽ ra sao, và chắc chắn rằng thị trường sẽ phát triển đúng như bạn dự đoán.
Thực tế: Đây là một điểm thường gặp ở những người ham mê đầu tư. Năm 1929, hầu như mọi người đều đồng ý vói tuyên bố của Irving Fisher rằng” các cổ phiếu đã đạt đến trạng thái cao bình ổn cao một cách lâu dài”, vậy mà chỉ một vài tuần sau họ đã chứng kiến cảnh hỗn loạn khi thị trường chứng khoán sụp đổ. Khi giá vàng tăng vọt vào năm 1970, người ta dễ dàng tin rằng tình trạng lạm phát phi mã là điều không thể tránh khỏi. Con giá trị của Yahoo, Ebay, Amazon.com hằng trăm website khác tăng lên gần như mỗi ngày, thì thật khó mà để tranh cãi với câu thần chú mà Walltreet đưa vào thập niên 1990 “ Lợi nhuận ( trong việc đầu tư vào các công ty thương mại điện tử) không còn là vấn đề chính yếu nữa”.
Đây là một biến thể từ “sai lầm chết người" thứ nhất trong hoạt động đầu tư, vốn cho rằng bạn có thể dự đoán tương lai, song những ảnh hưởng của nó còn mạnh mẽ và đôi khi bi thảm hơn nhiều.
Một khi nhà đầu tư tin tưởng rằng muốn có lợi nhuận thì phải có khả năng dự đoán tương lai, anh ta sẽ cố tìm các phương pháp để có thể dự đoán đúng. Nhà đâu tư nào bị rơi vào “sai lầm chết người” thứ bảy trong đầu tư sẽ nghĩ rằng anh ta gần như nắm chắc được tương lai và đã biết trước tương lai sẽ mang lại cho anh ta những gì. Vì vậy, cuối cùng khi nỗi đam mê ( hay niềm tin thiếu căn cứ?) không còn nữa, anh ta phải chứng kiến phần lớn vốn liếng của mình thành mây khối, và thậm chí anh ta có thể mất luôn cả nhà cửa lẫn tài sản của mình.
Trong bảy sai lầm này thì việc xâm nhập thị trường với một niềm tin võ đoán là điều nguy hiểm nhất đối với số vốn của bạn.

Vậy bạn đã trải qua và đánh giá như thế nào về những sai lầm này?