Hello and welcome to our community! Is this your first visit?
Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
Kết quả 11 đến 20 của 20
  1. #11


    Các vấn đề tăng trưởng kinh tế Việt Nam


    (Vietstock) - Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng
    cao trong những năm qua nhưng có một số tồn tại trong nền kinh tế có
    thể làm giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn. Trong giai đoạn hiện nay
    tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi của kinh
    tế thế giới và những giải pháp của chính phủ.


    Sau khi cải cách kinh tế, Việt Nam đã đạt được những
    bước tăng trưởng vượt bậc, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên một
    cách nhanh chóng. Việt Nam cũng thu hút được nhiều quan tâm của các nhà
    đầu tư nước ngoài, được thể hiện qua dòng vốn FDI và FPI chảy vào ngày
    càng lớn.


    Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự
    kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trên con đường phát triển kinh tế
    của Việt Nam. Gia nhập WTO không chỉ giúp kinh tế Việt Nam có điều kiện
    hội nhập, được hưởng những chính sách thương mại có lợi mà đây còn là
    một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy vậy,
    gia nhập WTO cũng là một thách thức thực sự khi những yếu kém kém trong
    nền kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Chất lượng tăng trưởng thấp, cơ sở
    hạ tầng yếu kém, thể chế pháp luật còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn
    nhân lực chưa cao. Đây chính là những hạn chế mà Việt Nam phải vượt qua
    để duy trì được một tốc độ tăng cao và đưa đất nước thoát khỏi nhóm
    nước nghèo như hiện nay.


    Bài viết của chúng tôi đánh giá một số vấn đề trong
    tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Để từ đó đưa ra xu hướng về tăng
    trưởng kinh tế Việt Nam trong tương lai.


    1.Bối cảnh kinh tế thế giới


    Trong những năm gần đây kinh tế thế giới đã đạt được
    tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Những nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung
    Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Sự phát triển công nghệ thông tin,
    thương mại và dịch chuyển dòng vốn các quốc gia trở nên gần gũi và phụ
    thuộc lẫn nhau hơn.


    Năm 2008, khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã nhanh chóng
    lan rộng và gây ra ảnh hưởng nặng nề trên quy mô toàn cầu. Tăng trưởng
    sụt giảm, thậm chí nhiều nền kinh tế rơi vào suy thoái, hệ thống tài
    chính rối loạn. Các quốc gia và tổ chức như IMF, WB… không ngừng nỗ lực
    thực hiện nhiều biện pháp để đối phó song triển vọng kinh tế toàn cầu
    cho đến này vẫn không mấy sáng sủa. Theo dự báo của các chuyên gia và
    tổ chức, kinh tế thế giới còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, khả
    năng phục hồi có thể chỉ bắt đầu từ cuối năm 2009. Hậu quả của cuộc suy
    thoái hiện nay sẽ còn kéo dài trong nhiều năm sắp tới.


    Trong bối cảnh như vậy, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác
    động rất lớn do xuất nhập khẩu, vốn đầu tư nước ngoài và kiếu hối suy
    giảm. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ chịu sự cạnh tranh khốc
    liệt của hàng ngoại nhập. Sự ảnh hưởng này còn tăng thêm do kinh tế
    Việt Nam tồn tại một số yếu kém nên khó có những thay đổi kịp thời để
    thích nghi với tình hình mới.


    Bảng 1: Dự báo tăng trưởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008





    (Cuối năm 2008 dự báo của WB còn khá lạc quan về tăng
    trưởng kinh tế thế giới. Dự báo mới nhất của WB vào tháng 4/2009 đã hạ
    mức dự báo tăng trưởng của các quốc gia. Kinh tế thế giới giảm khoảng
    1.7%, các nước phát triển giảm 3%, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ còn
    6.5%, các nước Đông Nam Á, Singapore, Malaysia, Thái Lan tăng trưởng
    âm).


    2.Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua


    Tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2000 - 2007
    đạt 7.6% [1]. Năm 2007, tăng trưởng 8.48%, đây cũng là mức tăng cao
    nhất từ sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. So với các nước
    trong khu vực và trên thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những
    năm gần đây khá ấn tượng. Dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng đây
    không phải là một hiện tượng thần kỳ vì theo tính toán của các nhà kinh
    tế thì tăng trưởng của Việt Nam đang ở dưới mức tiềm năng.


    Năm 2008, chịu ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô và
    khủng hoảng tài chính thế giới, tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.19% [2]. Tốc
    độ tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với năm 2007 và mục tiêu đã đề ra
    của chính phủ. Nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng giảm nhiều nhất là công
    nghiệp và xây dựng. Năm 2008, tăng trưởng của công nghiệp và xây dựng
    chỉ khoảng 6.33%, trong khi đó năm 2007 là 10.6%. Ngành xây dựng có mức
    suy giảm mạnh nhất từ mức 12.01% năm 2007 xuống 0.02% năm 2008. Nhóm
    ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2008 tăng trưởng 3.79%, không
    biến động nhiều so với tỷ lệ 3.4% của năm 2007. Quý 1 năm 2009 tăng
    trưởng GDP đạt 3.1%, thấp hơn nhiều so với năm 2008 và những năm trước
    đó. Tăng trưởng công nghiệp chỉ còn 1.5%, dịch vụ 5.4%, nông, lâm
    nghiệp và thủy sản tăng 0.4%. Điều này báo trước một năm 2009 là năm
    khó khăn với kinh tế Việt Nam.


    Hình 1: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009









  2. #12


    4.Chất lượng tăng trưởng thấp


    Tuy tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhưng chất lượng
    tăng trưởng còn khá thấp, cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững.
    Chất lượng tăng trưởng thấp đang đe dọa đến tính ổn định và sự bền vững
    phát triển kinh tế trong tương lai.


    4.1 Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua chỉ số ICOR cao


    Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so
    với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ
    đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến
    43.1%, còn theo ước tính sơ bộ quý 1 năm 2009 tỷ lệ này là 37.4%. Dù
    đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5% nên hệ số
    ICOR [4] luôn ở mức cao (Hình 5).


    ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền
    kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây
    nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.


    Hình 5: ICOR Việt Nam qua một số giai đoạn





    Nguồn: TCTK


    So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong khu vực có cùng giai đoạn phát triển kinh tế, ICOR của Việt Nam cao hơn rất nhiều.


    Hàn Quốc đã trở thành một “con rồng Châu Á” nhờ liên
    tục đạt được tốc độ tăng trưởng và chất lượng đầu tư cao. Các nước Đông
    Nam Á như Indonesia và Thái Lan có hệ số ICOR thấp hơn Việt Nam. Tuy
    vậy, các quốc gia này trong quá trình phát triển phải đối mặt với nhiều
    cuộc khủng hoảng. Trung Quốc được xem là một trường hợp đặc biệt khi
    liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng thần kỳ hơn 20 năm qua. Để đạt
    được thành tích đó ngoài những điều kiện phát triển thuận lợi như nguồn
    tài nguyên, nhân lực và chính sách phát triển phù hợp thì Trung Quốc
    phải trả giá khá đắt. Đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên
    và bất bình đẳng trong xã hội. Điều này càng cho thấy với hệ số ICOR
    cao như vậy kinh tế Việt Nam khó có sự phát triển bền vững. Nếu tình
    trạng này không được cải thiện thì Việt Nam phải trả một cái giá rất
    đắt trong tương lai.


    Bảng 4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á





    4.2 Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua tăng trưởng nhân tố


    Để xem xét chất lượng tăng trưởng ngoài phương pháp
    đánh giá dựa vào hệ số ICOR, chất lượng tăng trưởng còn được đánh giá
    thông qua đóng góp của các nhân tố cho tăng trưởng.


    Theo lý thuyết về tăng trưởng, phương trình tăng
    trưởng Cobb-Douglas có 3 nhân tố đóng góp vào tăng trưởng đó là vốn
    (K), lao động (L), TFP [5] (cải thiện công nghệ, năng suất lao động,
    hiệu quả sử dụng vốn). Nếu yếu tố TFP càng cao thì được xem như chất
    lượng tăng trưởng càng cao. Bảng 5 cho thấy mặc dù yếu tố cải thiện
    công nghệ ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong đóng góp vào tăng trưởng
    nhưng vẫn còn chiếm một tỷ lệ nhỏ. So sánh với các quốc gia khác, chẳng
    hạn tỷ trọng TFP thời kỳ 1980 – 2000 Hàn Quốc là 39.96%, Ấn Độ là
    40.78%, yếu tố đóng góp cho tăng trưởng TFP của Việt Nam cũng thấp hơn
    hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á. Điều này cho thấy mức độ
    đóng góp của cải thiện công nghệ và tăng năng suất lao động cho tăng
    trưởng của Việt Nam vẫn còn thấp. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phần
    lớn phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư và tăng số lượng lao động.





    4.3 Nguyên nhân làm cho chất lượng tăng trưởng không cao


    Trên đây chúng ta vừa xem xét hai yếu tố cho thấy chất
    lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
    đến tình trạng này nhưng trong giới hạn của bài viết nay chúng tôi chỉ
    nêu lên một số nguyên nhân quan trọng và chính yếu sau.


    a.Đầu tư khu vực nhà nước hiệu quả thấp


    Hiện nay vốn đầu tư của nhà nước và các DNNN chiếm tỷ
    trọng lớn nhưng chưa mang lại hiệu quả cao. Tính trung bình từ năm 2001
    – 2008 tỷ lệ đầu tư của khu vực nhà nước chiếm 47.5% tổng số vốn đầu tư
    xã hội. ICOR của khu vực nhà nước luôn ở mức rất cao. Chẳng hạn năm
    2007 ICOR toàn bộ nền kinh tế là 5.4 lần, trong khi đó khu vực nhà nước
    là 8.3 lần, ngoài nhà nước 3.7 lần, còn khu vực vốn đầu tư nước ngoài
    là 5 lần.


    Ngoài ra còn nhiều vấn đề chưa hợp lý trong việc sử
    dụng vốn đầu tư từ ngân sách. Cơ chế “xin cho” giữa trung ương và địa
    phương, giữa Chính phủ và DNNN còn phổ biến. Những vấn đề trên tất yếu
    dẫn đến việc phân bổ nguồn vốn không hiệu quả. Thẩm định để lựa chọn
    các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước phần lớn không dựa trên tiêu chí
    hiệu quả làm đầu. Nhiều dự án đầu tư chậm tiết độ, không được sử dụng
    kịp thời. Ngoài ra không ít dự án đầu tư xong không được sử dụng hoặc
    chậm sử dụng. Mặt khác chi phí đầu tư của khu vực nhà nước lớn, chất
    lượng không đạt yêu cầu do thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
    cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA.


    Đầu tư của DNNN cũng đang tồn tại nhiều vấn đề cần
    phải xem xét. Sự bất ổn vĩ mô năm 2008, nhiều nhà kinh tế cho là có sự
    đóng góp lớn của nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn,
    công ty đã đầu tư một cách tràn lan ra nhiều lĩnh vực góp phần làm xuất
    hiện bong bóng tài sản tài chính và bất động sản.


    DNNN đang được ưu tiên sử dụng rất nhiều nguồn lực
    quốc gia như vốn, tài nguyên và vị thế kinh doanh, tuy vậy hiệu quả
    hoạt động của DNNN lại không tương xứng với những nguồn lực được ưu
    tiên đó. Nhiều lĩnh vực kinh doanh DNNN đang chiếm vị thế độc quyền,
    triệt tiêu áp lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả trong nền kinh tế.


    b.Phát triển ngành và các khu vực chưa hợp lý


    Để thành công trên con đường hội nhập luôn đòi hỏi mỗi
    quốc gia có được một chiến lược phát triển hợp lý. Việt Nam là một nước
    đi sau nên có cơ hội để học hỏi từ thành công và thất bại của những nền
    kinh tế đi trước. Tuy vậy, trên thực tế Việt Nam dường như đã không
    phát huy được lợi thế đó.


    Chính phủ Việt Nam một mặt khẳng định “phát triển kinh
    tế theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN”
    nhưng song song với đó là xây dựng những tập đoàn kinh tế nhà nước quy
    mô lớn, hoạt động đa ngành. Mục đích của việc xây dựng các tập đoàn
    kinh tế để tăng lợi thế kinh tế theo quy mô nhằm tăng sức cạnh tranh
    của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Việt
    Nam vẫn xem DNNN là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế để duy trì sự
    “độc lập tự chủ” và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
    nghĩa.


    Mặc dù mục đích trên tốt đẹp nhưng giữa các mục tiêu
    lại có mâu thuẫn với nhau và thực tế cũng đã cho ta thấy điều đó. Sự
    bất cập trong hoạt động của tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã được
    mổ xẻ và phân tích rất nhiều trong thời gian qua..


    Nhà nước không tách bạch được chức năng quản lý và
    chức năng kinh doanh. Chính sách tập trung phát triển DNNN cũng không
    còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay. Các quốc gia trên
    thế giới đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn. Sự cạnh tranh và phát
    triển của doanh nghiệp và quốc gia dựa trên việc tham gia vào chuỗi giá
    trị cung ứng toàn cầu.


    Sự bất cập trong cơ cấu nền kinh tế còn được thể hiện
    qua việc lựa chọn ngành trong chiến lược phát triển công nghiệp chưa
    tận dụng được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang có.


    Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào, trẻ, có trình độ
    học vấn nhưng thiếu kỹ năng và tay nghề. Nhiều dự án đầu tư của Việt
    Nam không phát huy được những lợi thế này. Trong khi đó điểm yếu của
    Việt Nam là vốn, kỹ thuật, công nghệ và quản lý. Nhiều chính sách và dự
    án của Việt Nam tập trung vào ngành thâm dụng vốn như thép, đóng tàu…
    Hay việc cho phép xây dựng nhiều sân golf lấy đi hàng nghìn ha đất nông
    nghiệp khiến cho không ít người dân vùng nông thôn thất nghiệp.


    Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam không tạo
    ra được sự liên kết trước và sau để thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ
    trợ phát triển. Nhiều dự án FDI đầu tư vào Việt Nam nhằm khai thác
    những quy định lỏng lẻo về môi trường hay chỉ lợi dụng chính sách bảo
    hộ của nhà nước để tìm kiếm lợi nhuận không tạo ra được nhiều tiền đề
    cho sự phát triển kinh tế.


    Việt Nam rất nhiều lợi thế để phát triển ngành du lịch
    nhưng cho đến này vẫn chưa được khai thác đúng mức. Hạ tầng cứng và hạ
    tầng mềm cho ngành du lịch đang còn thiếu và yếu. Sự phát triển của một
    số ngành công nghiệp nặng, ô nhiễm đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiềm
    năng du lịch ở nhiều vùng trên đất nước.


    c.Chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học chưa cao


    Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến
    bộ khoa học công nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh
    của hàng hóa kém, giá trị gia tăng của các sản phẩm chưa cao.


    Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế
    cạnh tranh của Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một
    rào cản phát triển kinh tế. Số người lao động qua đào tạo đang chiếm
    một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được những công việc đòi
    hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với nhu
    cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở
    ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.


    Chất lượng công trình nghiên cứu ứng dụng còn thấp và
    số lượng lại ít. Hàng năm, ngân sách nhà nước sử dụng một phần không
    nhỏ cho nghiên cứu phát triển nhưng hiệu quả thu được rất khiêm tốn.


    Chi phí nghiên cứu nhiều dự án của nhà nước lên đến
    hàng tỷ đồng nhưng tính thực tiễn thấp. Nhiều dự án báo cáo xong nhưng
    không được triển khai ứng dụng mà “xếp vào tủ”. Nghiên cứu ở các trường
    đại học dừng lại ở mức độ thử nghiệm, thiếu tính ứng dụng. Những công
    trình được công bố ở nước ngoài và được quốc tế công nhận chiếm một tỷ
    lệ rất nhỏ. Doanh nghiệp trong nước chưa quan tâm nhiều đến nghiên cứu
    phát triển và ứng dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ, nâng cao
    năng suất lao động.


    d.Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu


    Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng cho
    phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng
    được yêu cầu phát triển của đất nước.


    Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà đầu
    tư nước ngoài khi đến Việt Nam là vấn đề cơ sở hạ tầng như giao thông,
    điện, viễn thông…


    Cơ sở hạ tầng điện phát triển chưa theo kịp nhu cầu.
    Với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7-8%/năm thì theo ước tính của các
    nhà khoa học, nhu cầu điện của Việt Nam tăng từ 16-17%. Hiện nay, công
    suất ngành điện mỗi năm tăng thấp hơn nhu cầu nên trong những năm gần
    đây, cảnh thiếu điện, cắt điện luân phiên, thường xuyên xảy ra trong cả
    nước. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế của đất nước. Lý
    giải của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) là do giá điện thấp nên không
    thu hút được đầu tư vào ngành điện. Dù giá điện hiện nay đã tăng theo
    yêu cầu của EVN nhưng tình trạng thiếu điện có thể không sớm được khắc
    phục do đang có rất nhiều dự án phát điện bị chậm tiến độ. Ngoài ra, kế
    hoạch cải tổ ngành điện được xem là biện pháp khả dĩ để giải quyết tình
    trạng thiếu điện nhưng đang diễn ra khá chậm.


    Tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những
    năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế,
    trong đó các tài trợ từ nguồn vốn quốc tế chiếm 40% tổng mức đầu tư.
    Nhưng cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang thiếu và đang trở nên quá tải.


    Chi phí vận tải ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các
    nước trong khu vực. Việt Nam chưa có cảng biển mang tầm cỡ quốc tế.
    Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí sản xuất hàng hóa ở Việt Nam,
    vì phải vận chuyển qua cảng trung gian. Vấn đề bất cập trong cơ sở hạ
    tầng hiện nay là thiếu một quy hoạch phát triển đồng bộ, chi phí đầu tư
    cao, chất lượng đầu tư thấp và thất thoát lớn trong quá trình đầu tư.


    Tình trạng ách tắc giao thông, giá đất cao, xây dựng
    cơ sở hạ tầng, đường giao thông đắt đỏ tại các đô thị lớn như Hà Nội và
    Tp. HCM là một trong những bước cản lớn cho phát triển của 2 thành phố
    lớn nhất nước này.


    Hệ thống viễn thông đang dần được cải thiện đáng kể
    khi có nhiều doanh nghiệp tham gia ở thị trường này. Tuy vậy, cơ sở hạ
    tầng cho hệ thống này cũng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất
    nước. Nhưng có lẽ vấn đề viễn thông không còn là một vấn đề đáng lo
    ngại khi Việt Nam có một thị trường viễn thông khá cạnh tranh như hiện
    nay.


    5.Một số tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam


    Tuy có một số yếu kém ở trên nhưng kinh tế Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển.


    1.Thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD bình
    quân năm 2008 là 1024 USD/người. Tuy vậy, thu nhập bình quân đầu người
    tính theo giá năm 1999 chỉ đạt 758 USD, tính theo sức mua tương đương
    (PPP) đạt khoảng 3,500 USD/người/năm, xếp thứ 120 trên 174 quốc gia
    trên thế giới. Như vậy Việt Nam vẫn còn là một nước có thu nhập thấp.
    Do vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn có thể được duy trì ở mức cao
    trong nhiều năm tới [6].


    2.Nguồn lao động trẻ, dồi dào, có nền tảng giáo dục
    khá tốt. Nếu nguồn lao động này được đào tạo bài bản thì có thể tiếp
    thu các kỹ năng và kiến thức tạo nên nguồn lực dồi dào giúp kinh tế
    Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.


    3.Dân số Việt Nam chỉ có 1/3 sống ở khu vực thành
    thị, có hơn 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
    thủy sản, tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và dịch vụ vào cơ cấu GDP
    còn thấp đây chính là tiềm năng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Những
    tiềm năng này thể hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu về dân số nông thôn
    lên thành thị, chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.


    4.Việt Nam đã gia nhập WTO từ năm 2007, quá trình mở
    cửa hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ. Đây chính là sức ép và động lực cho
    quá trình cải cách của Việt Nam diễn ra nhanh hơn. Việt Nam cũng nhận
    được quan tâm của nhiều nhà đầu tư, tập đoàn lớn trên thế giới. Các
    dòng vốn đầu tư nước ngoài và mở cửa thương mại thúc đẩy kinh tế Việt
    Nam phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.


    5.Trình độ công nghệ ứng dụng trong sản xuất của
    nhiều ngành còn lạc hậu. Chất lượng quản lý nhà nước và doanh nghiệp
    còn yếu kém, đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho tăng trưởng
    kinh tế Việt Nam khi các những yếu kém đó được cải thiện.

  3. #13
    Guest
    neu cho kinh te phuc hoi ro rang thi gia cplam gi con o muc gia nay nua ho bac .neu bac so thi cu ngoi cho khi nao kinh te hoi phuc thi chiu kho mua cp vao voi mucgia tren troi vay bac nhe .

  4. #14
    Guest
    Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?


    http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexe...925/index.aspx







  5. #15
    trantien Guest
    [quote user="dockhachhanh"]


    Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?




    http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexe...925/index.aspx








    [/quote]


    Tôi định post bài viết này lên để anh em đọc và bàn luận nhưng bị kiểm duyệt đành gửi đường link lên đây vậy


    Những vấn đề bài bào nêu lên đúng là căn bệnh trầm kha của kinh tế VN. Một sự thật hiển nhiên mà nhiều người cố tình ko hiểu

  6. #16
    imported_mymai647 Guest


    [quote user="dockhachhanh"]

    [quote user="dockhachhanh"]


    Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?


    http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexe...925/index.aspx








    [/quote]


    Tôi định post bài viết này lên để anh em đọc và bàn luận nhưng bị kiểm duyệt đành gửi đường link lên đây vậy


    Những vấn đề bài bào nêu lên đúng là căn bệnh trầm kha của kinh tế VN. Một sự thật hiển nhiên mà nhiều người cố tình ko hiểu

    [/quote]

    Xưa này những bài viết nói thẳng và động chạm như vậy thường là cấm kỵ. Đọc cái bài viết chỉ có trên tuanvietnam.net là thú vị nhất vì giảm nói sự thật. Ngay cả trên diễn đàn VST nhiều vấn đề còn không được thoải nói !!!

  7. #17
    Guest


    Chỉ tiêu tăng trưởng GDP và câu hỏi về tính pháp lý
    NGUYÊN HÀ

    12/05/2009 22:59 (GMT+7)
    Tại
    kỳ họp Quốc hội thứ 5 tới đây, Chính phủ đề nghị điều chỉnh hai chỉ
    tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 6,5% xuống khoảng 5%, và bội chi
    ngân sách Nhà nước từ 4,82% lên tối đa khoảng 8% GDP.Việc
    này không gây bất ngờ, song sẽ điều chỉnh tăng giảm đến mức nào, cơ sở
    của con số đó cùng tính pháp lý trong việc thực hiện các chỉ tiêu này
    vẫn đăt ra nhiều câu hỏi với không ít băn khoăn.5% dựa trên cơ sở nào?Tốc
    độ tăng trưởng GDP 5% được Chính phủ dự báo căn cứ vào tình hình kinh
    tế thế giới, tình hình kinh tế - xã hội quý 1 và tác động tích cực của
    gói kích cầu trong các tháng tới.Cụ
    thể khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 2 - 2,8%; khu vực công
    nghiệp và xây dựng tăng khoảng 3,5 - 5%; khu vực dịch vụ tăng khoảng
    7,5-7,7%.Theo
    Chính phủ, nếu kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn so với dự báo hiện
    nay, có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP vào khoảng 5,5- 6%.Trong
    báo cáo, Chính phủ cũng dự báo cả năm tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
    từ 3 -5%, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 6%, giải quyết việc làm mới
    khoảng 1,52-1,57 triệu lao động.Thẩm
    tra báo cáo này, Ủy ban Kinh tế nhất trí việc điều chỉnh một số chỉ
    tiêu chủ yếu nêu trong Nghị quyết của Quốc hội là cần thiết.Song,
    để bảo đảm tính pháp lý trong việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,
    Ủy ban đề nghị tại kỳ họp tới, Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh
    bốn chỉ tiêu chủ yếu, có tính chi phối đến đời sống kinh tế - xã hội
    của đất nước: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, bội chi
    ngân sách nhà nước, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, còn các chỉ tiêu
    khác giao Chính phủ cân đối và điều hành cụ thể.Đa
    số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhất trí đề nghị điều chỉnh chỉ tiêu giá
    tiêu dùng ở mức khoảng 6%; điều chỉnh chỉ tiêu tốc độ tăng kim ngạch
    xuất khẩu xuống khoảng 3%.Với
    chỉ tiêu bội chi ngân sách, ủy ban này cho rằng không nhất thiết phải
    tăng quá lớn, nhất là trong điều kiện việc giải ngân các nguồn vốn đầu
    tư còn nhiều bất cập. Bởi vậy, đề nghị Chính phủ rà soát, tính toán khả
    năng thu,chi ngân sách để xác định số bội chi cần thiết, bảo đảm tính
    hợp lý và thực tế.Riêng
    về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, các ý kiến đề nghị cần điều chỉnh
    giảm, nhưng đề xuất các mức khác nhau, cụ thể là: 5-5,5%, 5%, 4,5-5%.Đa
    số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, nếu tập trung tháo gỡ được một
    số điểm nghẽn (ví dụ như thủ tục đầu tư), sớm cụ thể hóa chương trình
    kích thích kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thực hiện hệ thống các giải pháp
    thì chúng ta có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong những quý
    tiếp theo; đồng thời cũng bày tỏ quan điểm cần cố gắng phấn đấu đạt mức
    tăng trưởng kinh tế khoảng 5%.Tuy nhiên, do tăng trưởng kinh tế quý 1 chỉ đạt 3,1% nên mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân cả năm 5% là một thách thức lớn.Qua
    tính toán sơ bộ, giả định GDP có tốc độ tăng dần đều qua các quý, muốn
    đạt tăng trưởng bình quân cả năm 5% thì phải có gia tốc tăng mỗi quý là
    1,3%. Theo đó, quý 2 đạt 4,4%, quý 3 đạt 5,7%, quý 4 đạt 7%.Do vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo làm rõ cơ sở và tính thực tế của việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 5%.Băn khoăn tính pháp lýThảo
    luận báo cáo của Chính phủ về triển khai thực hiện kế hoạch phát triển
    kinh tế - xã hội năm 2009, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Phùng
    Quốc Hiển đặt câu hỏi: không biết Quốc hội có nên bàn về chỉ tiêu tăng
    trưởng GDP hàng năm không, GDP và CPI có được coi là chỉ tiêu pháp lệnh
    hay là chỉ tiêu để Chính phủ báo cáo Quốc hội? "Năm
    2008 đề nghị giảm từ 8,5 còn 7%, tổ chức thực hiện chỉ đạt 6,18%. Năm
    nay khả năng điều chỉnh chỉ còn 5% thôi, có khi thực hiện còn còn không
    đạt 5%, vậy thì nên thế nào? Phải chăng Quốc hội nên đánh giá chất
    lượng điều hành của Chính phủ so với năm trước chứ không phải qua chỉ
    tiêu", ông Hiển nói.Tính pháp lý của các chỉ tiêu đến đâu là băn khoăn của không ít đại biểu và không phải đến bây giờ mới được nói tới.Trả
    lời phỏng vấn VnEconomy đầu năm nay, đại biểu Quốc hội Đặng Như Lợi,
    Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng chỉ
    tiêu chỉ mang tính định hướng.Ông
    nói: “Tôi nghĩ có nhiều đại biểu nhận thấy một số chỉ tiêu kinh tế - xã
    hội đặt ra chưa thật hợp lí, nhưng Quốc hội không biểu quyết từng chỉ
    tiêu mà biểu quyết theo khoản hoặc điều, nên các chỉ tiêu gộp chung
    trong điều, khoản thường được thông qua. Tuy nhiên, vấn đề chính là các
    chỉ tiêu được thông qua chưa phải là quy định nghiêm ngặt của pháp
    luật, kết quả thực hiện chưa gắn với xử lí cơ quan chức năng có trách
    nhiệm”.Ngay
    tại thời điểm đó, ông đã cho rằng chỉ tiêu tạo việc làm cho 1,7 triệu
    người lao động năm 2009 là không có cơ sở cả về lí thuyết và thực tiễn.
    Và dự báo mới nhất của Chính phủ trong cả năm có thể giải quyết việc
    làm mới khoảng 1,52 - 1,57 triệu lao động.Theo
    Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Văn Thuận thì Quốc hội
    luôn đứng bên cạnh Chính phủ, cùng nêu cao tinh thần trách nhiệm, song
    Chính phủ cần phải làm rõ để thuyết phục Quốc hội những vấn đề đã đề
    xuất.Về
    con số tăng trưởng GDP 5%, ông Thuận cho rằng tăng trưởng vốn là chủ
    yếu, cần tăng trưởng lại "bơm" tiếp vốn vào, thì thử hỏi sẽ giải thích
    thế nào khi sự cải thiện của đời sống không tương xứng với tăng trưởng
    kinh tế.Vấn đề khiến đại biểu Thuận quan ngại là vì sao hệ số đầu tư tăng trưởng (ICOR) năm sau cứ cao hơn năm trước, ngay cả khi chưa có khủng hoảng kinh tế thì ICOR vẫn
    cao.Theo báo cáo của Chính phủ thì năm 2008 hệ số ICOR tăng lên đến
    6,66 là cao hơn so với năm trước (năm 2007 là 5,2). Theo ông việc này
    hầu như không có nguyên nhân khách quan, mà chỉ có nguyên nhân chủ quan.Lại chuyện dự báoTại
    kỳ họp tới đây, Quốc hội sẽ xem xét báo cáo bổ sung tình hình kinh tế
    xã hội năm 2008.Chính phủ “tự kiểm điểm”có 9 chỉ tiêu không đạt kế
    hoạch đề ra, bao gồm cả tốc độ tăng GDP, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
    trên GDP, tạo việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo…Đánh
    giá “những kết quả đạt được trong năm 2008 là tích cực, về cơ bản đã
    đạt được mục tiêu tổng quát nêu trong Nghị quyết của Quốc hội” song Ủy
    ban Kinh tế của Quốc hội cũng chỉ ra “những hạn chế cần xem xét một
    cách đầy đủ và nghiêm túc”.Hạn
    chế đầu tiên là công tác phân tích số liệu, đánh giá và dự báo chưa sát
    diễn biến thực tế, nhiều chỉ tiêu quan trọng có sự chênh lệch, thấp hơn
    so với thời điểm báo cáo Quốc hội.Tháng
    11, tháng 12 năm ngoái vẫn dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt
    6,7-6,8%, nhưng kết quả thực tế chỉ đạt 6,2%, dẫn tới việc xây dựng và
    quyết định các chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
    sau phần nào còn lạc quan, thiếu tính sát thực. Việc
    lập dự toán thu chưa sát với tình hình thực tiễn, đã ảnh hưởng đến tính
    chủ động trong bố trí kế hoạch chi và cân đối ngân sách chung.Ủy
    ban Tài chính - Ngân sách cũng “phê” Chính phủ dự báo kinh tế chưa tốt,
    xây dựng dự toán ngân sách chưa sát với tình hình thực tế, thu, chi
    vượt dự toán lớn.Việc
    điều chỉnh các chính sách tuy có kịp thời, nhưng có tình trạng Chính
    phủ vượt quá thẩm quyền cho phép đối với một số khoản chi, ủy ban này
    khẳng định.Trong
    vai trò thẩm tra, cả Ủy ban Kinh tế và Tài chính - Ngân sách đều đề
    nghị Chính phủ tăng cường công tác dự báo, chủ động xây dựng các chủ
    trương, biện pháp chiến lược cho nền kinh tế sau khi kinh tế thế giới
    ra khỏi khủng hoảng và phục hồi, kể cả vấn đề cấu trúc nền kinh tế, lựa
    chọn các mô hình phát triển. *
    Theo dự báo của Chính phủ thì nền kinh tế nước ta trong năm 2009 không
    bị rơi vào khủng hoảng, suy thoái như các quốc gia khác, và bắt đầu có
    dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng tích cực.


  8. #18
    imported_mymai647 Guest


    e cũng đồng ý với bác là KT chưa có dấu hiệu rõ ràng của sự phục hồi .

    [table] Ba kịch bản cho kinh tế Việt Nam 13/05, 16:38 |




    |




    [table]




    Với
    kịch bản cơ bản, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2009 sẽ
    giảm xuống còn 4,69% so với 6,18% của năm 2008. Mức lạm phát sẽ tăng
    tới 9,4%, xuất khẩu giảm 12,2%



    [/b]


    [url="http://****.vn/****/view_news_detail.asp?id=27178&menuID=1&cat egoryID=130">

  9. #19


    Mấy bác LĐ nhà ta lạc quan quá. Biết là nói ra không làm được mà vẫn nói. Với việc trông bố chi tiết 8 tỷ USD kích cầu trông mà khiếp quá

  10. #20


    [table] Việt Nam trước thách thức xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển |




    19/05/2009 06:02 (GMT + 7) |






    (TuanVietNam)-
    Vượt lên với nỗ lực xây dựng “Nhà nước kiến tạo phát triển” hay sa lầy
    trong mô thức “Nhà nước đối phó - xoay sở”?Việt Nam có trở thành một
    “Nhà nước kiến tạo phát triển” hay không, sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sự
    chín muồi của ba yếu tố then chốt: Đòi hỏi của người dân; Hiểm họa an
    ninh quốc gia; và Khan hiếm tài nguyên thiên nhiên". TS. Vũ Minh
    Khương.

    |








    Đặc điểm của Nhà nước kiến tạo phát triển


    Chất
    lượng thể chế và nguyên tắc thị trường là hai động lực căn bản tương
    tác chặt chẽ với nhau trong tạo nên sức phát triển lâu bền của một quốc
    gia. Trong hai động lực căn bản này, chất lượng thể chế có vai trò then
    chốt quyết định chất lượng hoạt động của các nguyên tắc thị trường; và
    do đó quyết định tương lai phát triển của một đất nước.





    Trong công cuộc phát triển, mỗi quốc
    gia đang phát triển đều trải qua thời điểm then chốt trong lựa chọn xây
    dựng thể chế phát triển: vượt lên với nỗ lực xây dựng “Nhà nước kiến
    tạo phát triển” hay sa lầy trong mô thức “Nhà nước đối phó - xoay sở”.


    Quyết định lựa chọn xây dựng “Nhà
    nước kiến tạo phát triển” đòi hỏi nỗ lực quyết liệt nâng cao chất lượng
    thể chế, coi đó là một trong những yếu tố nền móng căn bản cho toàn bộ
    công cuộc phát triển.


    Bằng lòng với mô thức “nhà nước đối
    phó - xoaysở” là sự né tránh những đòi hỏi bức bách phải nâng cao chất
    lượng thể chế, để rồi bận rộn với các giải quyết sự vụ và sự sa lầy vào
    các dự án lớn đặc trưng bởi tầm nhìn hạn hẹp và sự thao túng và vụ lợi
    của các nhóm lợi ích và cá nhân. Khi đó, quốc gia này có nguy cơ suy
    biến thành “nhà nước cai trị hủ bại.”


    Các quốc gia đã thành công trong xây
    dựng “nhà nước kiến tạo phát triển” điển hình ở Đông Á là Nhật Bản, Hàn
    Quốc, và Singapore. Sự phân định một quốc gia đang đi vào hướng lựa
    chọn nào của thể chế phát triển, “kiến tạo phát triển” hay “cai trị -
    hủ bại” có thể được nhận diện thông qua năm đặc điểm liên quan đến nỗ
    lực xây dựng thể chế phát triển nêu ở bảng dưới đây:




    Các yếu tố quyết định hướng lựa chọn thể chế phát triển và thách thức với Việt Nam

    Khác với sự nhầm tưởng thường thấy,
    sự lựa chọn thể chế phát triển không tùy thuộc chủ yếu vào vai trò cá
    nhân lãnh đạo mà chịu tác động đặc biệt của các ba yếu tố then chốt,
    khách quan: Đòi hỏi của người dân; Hiểm họa an ninh quốc gia; và Khan hiếm tài nguyên thiên nhiên [1].


    Một quốc gia có xu hướng buộc phải lựa chọn con đường xây dựng “Nhà nước kiến tạo phát triển” nếu hội đủ được ở mức cao cả ba yếu tố nói trên.





    [table]



    "[img]http://www.tuanvietnam.net/news/images/nutdo.gif" vspace="7" width="3" height="3">


 

Các Chủ đề tương tự

  1. Kinh tế Việt Nam: Sẽ sớm hồi phục hay còn trì trệ kéo dài?
    Bởi dungdt trong diễn đàn Thảo luận Tình hình
    Trả lời: 3
    Bài viết cuối: 05-03-2013, 11:05 AM
  2. Kinh tế châu Âu sẽ về đâu?
    Bởi tieuhoang001 trong diễn đàn Thảo luận Tình hình
    Trả lời: 2
    Bài viết cuối: 04-08-2012, 11:55 AM
  3. Quốc hội sẽ xem xét Đề án tái cơ cấu kinh tế
    Bởi simdep575 trong diễn đàn Thảo luận Tình hình
    Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 18-05-2012, 10:30 AM
  4. Điều gì sẽ xảy ra nếu nền kinh tế Hy Lạp vỡ nợ?
    Bởi huythond trong diễn đàn Thảo luận Tình hình
    Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 28-09-2011, 02:42 AM
  5. Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 26-02-2007, 11:28 AM

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •