Hello and welcome to our community! Is this your first visit?
Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 12
  1. #1
    minmaana355 Guest


    Phân tích cơ bản - 6 điểm làm tăng khả năng thành công

    Trong đầu
    tư chứng khoán, nhà đầu tư (NĐT) nên xây dựng cho mình một quy trình ra
    quyết định chặt chẽ, điều đó giúp giảm thiểu rủi ro và tăng sự tin
    tưởng vào quyết định đầu tư cũng như tin tưởng vo cổ phiếu hiện đang
    nắm giữ.

    Thông thường, để đánh giá cổ phiếu một cách đầy đủ thì cần phải tiến hành phân tích cơ bản.

    Khi ra một quyết định đầu tư trong ngắn hạn, người viết thường dựa vào hai quá trình phân tích sau:

    - Phân tích thị trường: để nhận định việc nên mua hay bán và thời điểm thực hiện.

    -
    Phân tích cổ phiếu: để mua cổ phiếu tốt đem lại lợi nhuận cao, hoặc bán
    cổ phiếu không còn khả năng sinh lời, và thời điểm mua - bán hợp lý.

    Theo
    lý thuyết thì đó là sự phân bổ đầu tư theo định hướng top - down, có
    nghĩa là nhìn nhận quá trình đầu tư từ trên xuống. Trước tiên là nhận
    định thị trường, quyết định thời điểm mua - bán và tỷ trọng phân bổ
    tiền - cổ phiếu, sau đó chọn cổ phiếu đầu tư. Quy trình đó khác với
    việc một số NĐT nhỏ lẻ thường mua bán cổ phiếu mà ít quan tâm tới xu
    hướng thị trường, hoặc nắm giữ những cổ phiếu đã hết khả năng sinh lời,
    hoặc thời điểm mua bán của từng cổ phiếu là không hợp lý. Tất cả những
    điều đó đều ảnh hưởng tới lợi nhuận của hoạt động đầu tư, nhất là trong
    ngắn hạn.

    Thông thường, để đánh giá cổ phiếu một cách đầy đủ thì
    cần phải tiến hành phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật và phân tích
    thông tin không cân xứng với tỷ trọng đóng góp lần lượt là 50% - 30% -
    20%. Sở dĩ phân tích cơ bản chiếm tỷ trọng cao (50%) vì đó là nền tảng
    của hoạt động phân tích tài chính và một cổ phiếu phải có tiềm năng
    tăng trưởng trong dài hạn thì mới có thể tăng giá trong ngắn hạn được.
    Khi phân tích cơ bản, NĐT cần chú ý 6 điểm cơ bản sau:

    Lĩnh vực kinh doanh

    Doanh
    nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện
    qua tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và
    lợi nhuận của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp chỉ có một sản phẩm
    chính chiếm tỷ trọng cao trong doanh thu như VIC, TSC... nhưng một số
    khác lại có nhiều sản phẩm chính và tỷ trọng gần như đồng đều (ví dụ:
    HHC), thậm chí các sản phẩm hầu như không có mối liên quan (như vừa sản
    xuất, vừa đầu tư tài chính). Biết được lĩnh vực kinh doanh chính của
    công ty giúp chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh hưởng có thể
    có tới doanh nghiệp như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai,
    đối thủ cạnh tranh...

    Vốn và cơ cấu vốn

    - Quá trình tăng
    vốn của doanh nghiệp: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng
    vốn trong thời gian tới, vì ở Việt Nam, có một thực tế là cả trước và
    sau khi doanh nghiệp tăng vốn thì giá cổ phiếu thường tăng mạnh.

    -
    Cơ cấu sở hữu vốn: Nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm; cổ đông chiến
    lược, cổ đông tổ chức, cá nhân nắm số lượng lớn; cổ phiếu lưu hành, số
    cổ phiếu bị hạn chế chuyển nhượng. Thông thường, một cổ phiếu có nhiều
    cổ đông chiến lược thì tốt trong dài hạn, và kỳ vọng của NĐT tăng cao.
    Ngoài ra, khi doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và cổ đông
    chiến lược lớn thì số cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường ít hơn
    nhiều so với tổng số cổ phiếu, điều này có lợi cho giá cổ phiếu vì
    lượng cung bị hạn chế.

    - Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi
    nhuận: nếu một doanh nghiệp có lợi nhuận lớn và tỷ lệ vay nợ hiện tại
    cao thì nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí
    vay. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với
    vốn điều lệ thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao.

    HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát

    -
    HĐQT bao gồm những ai, tỷ lệ vốn góp của họ; chiến lược đề ra có vì
    quyền lợi của cổ đông, liệu có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông tổ chức
    và cổ đông nhỏ lẻ.

    - Số lượng cổ phiếu nắm giữ của thành viên
    HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát và những người liên quan: Nếu số
    lượng nắm giữ cổ phiếu càng lớn thì rõ ràng là họ đều đặt niềm tin vào
    khả năng tăng trưởng của cổ phiếu và đó là cổ phiếu tốt. Còn khi họ bán
    ra với số lượng lớn thì đó là tín hiệu xấu.

    Chỉ số tài chính


    những doanh nghiệp tỷ lệ nợ rất cao nhưng điều đó là bình thường vì đó
    là đặc thù của ngành (như ngành xây dựng) hoặc có những doanh nghiệp có
    tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/doanh thu rất thấp vì họ hoạt động xuất nhập
    khẩu. Tuy nhiên, cho dù ngành nghề nào thì có những chỉ tiêu chính sau
    đây cần phải quan tâm: doanh thu thuần, ROS, ROA, ROE, EPS, P/E, P/E/G,
    cơ cấu nợ và đòn bẩy tài chính, cổ tức và chính sách cổ tức... Cần so
    sánh các chỉ số đó với các doanh nghiệp khác cùng ngành và mức bình
    quân của ngành để thấy rõ được ưu - nhược điểm của doanh nghiệp. NĐT
    nên xây dựng cho mình bảng chỉ số tài chính cho các nhóm ngành để từ đó
    có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn, so sánh chỉ số của các nhóm ngành
    đó với mức bình quân toàn thị trường.

    Sản phẩm, thương hiệu và hệ thống phân phối - dịch vụ

    Thực
    tế cho thấy, doanh nghiệp có thương hiệu và sản phẩm uy tín trên thị
    trường, cùng với hệ thống phân phối và dịch vụ tốt thì giá cổ phiếu của
    doanh nghiệp thường ở mức cao hơn so với mặt bằng chung. Một số doanh
    nghiệp tạo dựng được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, có
    những đối tác chiến lược thì giá cổ phiếu ổn định và tăng trưởng bền
    vững hơn những doanh nghiệp nhỏ chưa gây dựng được thương hiệu, uy tín
    cho riêng mình.

    Giao dịch của NĐT nước ngoài và các tổ chức lớn

    NĐT
    nước ngoài thường mua vào những cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng trong
    dài hạn, và các tổ chức cũng như cá nhân trong nước vẫn thường quan sát
    các động tĩnh của NĐT nước ngoài. Việc đầu tư ngắn hạn trên những cổ
    phiếu thuộc diện đầu tư dài hạn đem lại cảm giác ít rủi ro hơn, nhất là
    khi cổ phiếu đó có các tổ chức nước ngoài nắm giữ với khối lượng lớn và
    đang tiếp tục mua thêm.

    Trên đây là một số nét chính khi tiến
    hành phân tích cơ bản một cổ phiếu. Trước khi quyết định đầu tư, NĐT
    nên làm rõ thêm một số vấn đề sau: những rủi ro khi đầu tư vào một mã
    cổ phiếu cụ thể; thời điểm mua - bán, thời gian nắm giữ và lợi nhuận kỳ
    vọng; ước lượng thiệt hại lớn nhất có thể xảy ra và cách thức giảm
    thiểu rủi ro (mua thêm để bình quân giá hay bán để cắt lỗ).

  2. #2
    Guest




    Các
    phương pháp xác định giá trị nội tại của cổ phiếu








    Tính
    toán giá trị nội tại của cổ phiếu bằng phương pháp dòng tiền là một việc hết
    sức quan trọng trong chiến lược đầu tư giá trị. Tuy vậy, việc này có vẻ như là
    một bài toán khó đối với những nhà đầu tư không chuyên về tài chính. Ông Lâm
    Minh Chánh, nhà nghiên cứu tài chính độc lập, đã viết bài này nhằm giải thích
    và cung cấp một số cách tính giá trị nội tại đơn giản.



    Chiến lược đầu tư theo giá trị nội tại



    Chiến lược đầu tư theo giá trị nội tại là tìm kiếm
    những cổ phiếu undervalued, tức là những cổ phiếu được thị trường định giá thấp
    hơn giá trị của công ty.



    Nhà đầu tư theo chiến lược đầu tư giá trị sẽ mua cổ
    phiếu khi nhận thấy giá trị nội tại của nó thấp hơn thị giá (underpriced). Khi
    đó, nhà đầu tư sẽ nhận được lợi nhuận, giá trị hiện tại của lợi nhuận này chính
    là sự khác biệt của giá trị nội tại và thị giá. Trên đồ thị, khoản cách biệt
    giữa thị giá (đường màu đen) và giá trị nội tại (đường màu đỏ) được thể hiện là
    đoạn màu đỏ. Khi dự tính mua, đó chính là biên độ an toàn (margin of safety),
    còn khi nó thật sự xảy ra thì đó chính là lợi nhuận đầu tư. Vấn đề chính của
    nhà đầu tư giá trị là dự tính cho được giá trị nội tại của cổ phiếu.



    Giá trị nội tại



    Giá trị nội tại dịch từ chữ intrinsic value. Chữ
    “nội tại” cho thấy rõ rằng, đây là giá trị bên trong, nội tại của tài sản, chứ
    không phụ thuộc vào yếu tố thị trường bên ngoài. Nói một cách khác, thị trường
    định giá tài sản như thế nào là quyền của thị trường, nhưng tài sản sẽ luôn
    cung cấp cho người sở hữu một giá trị nhất định. Giá trị đó không gì khác hơn
    chính là những dòng tiền mà người làm chủ tài sản sẽ nhận được. Trong trường
    hợp làm chủ tài sản đó vô thời hạn thì nhà đầu tư sẽ nhận được toàn bộ các dòng
    tiền trong tương lai. Còn nếu làm chủ một thời gian dài, ví dụ 7 năm, thì dòng
    tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là toàn bộ dòng tiền trong thời hạn 7 năm đó,
    và số tiền thu được khi bán tài sản đó vào thời điểm 7 năm sau. Thế nhưng để
    xác định giá của cổ phiếu vào thời điểm 7 năm sau thì người ta lại cũng sẽ xác
    định những dòng tiền cổ phiếu đó mang lại trong tương lai, tức là từ sau năm
    thứ 7 trở đi. Nói một cách khác, dù giữ 7 năm, hay giữ vô thời hạn, thì giá trị
    mà chúng ta có thể nhận được từ tài sản đó chính là giá trị của tất cả các dòng
    tiền trong tương lai do tài sản đó đem lại. Và vì tiền có giá trị thời gian,
    chúng ta không thể cộng các dòng tiền đó với nhau, mà phải chiết khấu các dòng
    tiền về theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định.



    Các loại dòng tiền



    Dòng tiền cổ tức. Đây chính là dòng cổ tức trả bằng
    tiền mặt. Một điều chúng ta cần phải nhớ rằng, cổ tức trả bằng cổ phiếu không
    được tính là dòng tiền cổ tức. Tỷ lệ chiết khấu được dành cho dòng tiền này gọi
    là chi phí của vốn chủ sở hữu. Công ty có rủi ro cao thì chi phí vốn chủ sở hữu
    càng cao. Công ty có rủi ro thấp thì chi phí vốn chủ sở hữu thấp hơn. Việc xác
    định chi phí vốn chủ sở hữu này khá phức tạp và có thể nói là chưa thể áp dụng
    một cách chính xác tại Việt Nam.
    Theo cách làm hiện tại của các công ty đầu tư, chi phí vốn chủ sở hữu đối với
    các công ty trung bình, có thể áp dụng mức 15%. Nếu công ty có rủi ro cao thì
    áp dụng mức cao hơn 15%, và ngược lại. Chiết khấu các dòng tiền cổ tức về hiện
    tại theo tỷ lệ chiết khấu chi phí vốn chủ sở hữu, rồi cộng chúng lại chúng ta
    sẽ có giá trị nội tại của cổ phiếu.



    Dòng tiền thuần của chủ sở hữu là dòng tiền còn lại
    của vốn chủ sở hữu sau khi đã trả lãi và nợ gốc, trang trải các chi phí bảo trì
    tài sản hiện hành cũng như tạo ra các tài sản mới cho sự tăng trưởng trong
    tương lai, viết tắt là FCFE (free cash flow to equity investors) được tính như
    sau:



    FCFE = lợi nhuận ròng + khấu hao - chi tiêu tài sản
    cố định thuần - tăng vốn lưu động - các khoản trả nợ gốc + các khoản phát hành
    nợ mới



    Dòng tiền thuần này cũng dùng tỷ lệ chiết khấu giống
    như dòng tiền cổ tức, tức là chi phí của vốn chủ sở hữu. Chiết khấu các dòng
    tiền FCFE về hiện tại theo tỷ suất vốn chủ sở hữu, cộng chúng lại chúng ta sẽ
    có giá trị nội tại của toàn bộ vốn chủ sở hữu. Chia giá trị này cho toàn bộ số
    cổ phiếu hiện hành ta sẽ có giá trị của từng cổ phần (trong trường hợp công ty
    có cổ phiếu ưu đãi thì chúng ta phải trừ đi giá trị của các cổ phần ưu đãi).



    Dòng tiền thuần công ty là dòng tiền được sở hữu bởi
    toàn bộ chủ sở hữu và toàn bộ chủ nợ của công ty, viết tắc là FCFF (free cash
    flow to the firm)



    FCFF = Lợi nhuận trước lãi vay và thuế x (1 - thuế
    suất) + chi phí khấu hao - chi tiêu tài sản cố định thuần - tăng giảm vốn lưu
    động



    Tỷ lệ chiết khấu dành cho dòng tiền thuần công ty là
    WACC (weighted average cost of capital), tạm dịch là chi phí sử dụng vốn của công
    ty. WACC bằng trung bình gia quyền của chi phí vốn chủ sở hữu và chi phí vốn
    vay. Chiết khấu các dòng tiền FCFF về hiện tại theo tỷ suất WACC, cộng chúng
    lại chúng ta sẽ có giá trị nội tại của toàn bộ công ty. Trừ đi giá trị của nợ
    ta sẽ được giá trị vốn chủ sở hữu. Chia giá trị này cho toàn bộ số cổ phiếu
    hiện hành ta sẽ có giá trị của từng cổ phần.



    Các dòng tiền nói trên có thể giả định theo các mô
    hình khác nhau: mô hình tăng trưởng 1 giai đoạn, 2 giai đoạn, 3 giai đoạn.
    Thường thì giai đoạn cuối cùng hoặc là dòng tiền đều, hoặc là tăng trưởng bền
    vững. Mô hình tăng trưởng cũng như tốc độ tăng trưởng chỉ có thể được dự đoán
    sau khi chúng ta nghiên cứu kỹ. Đầu tiên là phân tích môi trường vĩ mô, tình
    hình ngành, tình hình cônhg ty (lợi thế cạnh tranh, hướng đi tương lai, cơ cấu
    vận hành, các chỉ số tài chính). Một điều cần lưu ý là tỷ lệ tăng trưởng bền
    vững phải nhỏ hơn hay cao nhất là bằng tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Không
    có doanh nghiệp nào có thể tăng trưởng mãi mãi với tốc độ cao hơn tỷ lệ tăng
    trưởng chung của nền kinh tế.



    Ví dụ1: một công ty chia 1.000 đồng cổ tức vào năm
    nay. Sau khi phân tích tình hình, chúng ta giả định rằng, dòng cổ tức sẽ tăng
    trưởng 40% trong 3 năm đầu, 20% trong 5 năm sau, 7% tăng trưởng bền vững. Công
    ty này có độ rủi ro khá cao nên tỷ lệ chiết khấu là 18%. Giá trị nội tại dự
    tính của cổ phiếu công ty này là: 1.000 x 52 = 52.000 đồng.



    Ví dụ 2: một công ty có dòng tiền thuần của vốn chủ
    sở hữu năm nay là 30 tỷ đồng. Sau khi phân tích tình hình, chúng ta giả định rằng,
    dòng cổ tức sẽ tăng trưởng 20% trong 3 năm đầu, 12% trong 5 năm sau, 6% tăng
    trưởng bền vững. Công ty này có độ rủi ro trung bình nên tỷ lệ chiết khấu là
    15%. Giá trị của toàn bộ vốn chủ sở hữu là: 30 x 26 = 780 tỷ đồng. Công ty
    không có cổ phiếu ưu đãi, chỉ có 4 triệu cổ phần phổ thông, giá trị nội tại dự
    tính của cổ phiếu công ty này là: 780 tỷ đồng/4 triệu cổ phiếu = 195.000 đồng.

  3. #3
    RonnieTync Guest


    Thông tin thú vị về EPS

    Từ
    ngày có cái thị trường chứng khoán, đọc báo chí, nghe tin tức thấy
    người ta nói đến EPS nhiều quá nên cũng tò mò muốn biết nó là cái gì.
    Tìm đến hỏi một số chuyên gia có thâm niên “đánh Đông dẹp Bắc” trên thị
    trường chứng khoán thì được biết nó là viết tắt của Earnings Per Share,
    dịch ra tiếng Việt là lợi nhuận trên một cổ phần.

    Tò mò hỏi
    tiếp thế vì sao mà EPS lại quan trọng thế? Lần này thì câu trả lời phức
    tạp hơn, hóa ra xung quanh anh chàng EPS này cũng có khá nhiều điều lý
    thú. Xin được chia sẻ cùng quý vị một số điều lý thú đó.

    Vì sao EPS lại được ưa thích như vậy?

    Những
    ai từng một lần sử dụng báo cáo tài chính đều biết một báo cáo tài
    chính thông thường cũng dài mấy chục trang, các công ty lớn thì hàng
    trăm trang là chuyện bình thường. Trong một báo cáo tài chính có rất
    nhiều thông tin, nhưng có một dòng nằm khiêm tốn tận cuối của Báo cáo
    kết quả kinh doanh (Income Statement) lại luôn nhận được sự quan tâm
    đặc biệt. Đó chính là dòng “Lợi nhuận trên một cổ phần” (tiếng Anh là
    earnings per share – EPS). EPS xuất hiện trong hầu hết các phân tích
    tài chính và quen thuộc đến nỗi từ cụ già tới em nhỏ, hễ cứ quan tâm
    đến thị trường chứng khoán là biết EPS có nghĩa là gì, mặc dù chưa từng
    một ngày học tiếng Anh. Nhưng vì sao giữa một rừng các con số trong báo
    cáo tài chính, EPS lại được quan tâm đến vậy? Câu hỏi này được Graham,
    Harvey, Rajgopal (2005)đặt ra cho các vị giám đốc tài chính (CFOs) của
    401 công ty tại Mỹ, và đây là câu trả lời: Thứ nhất, các nhà đầu tư
    hằng ngày nhận được rất nhiều thông tin (từ báo cáo tài chính cũng như
    từ các nguồn khác) trong khi khả năng xử lý thì có hạn. Vì vậy, các nhà
    đầu tư cần một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
    của doanh nghiệp một cách đơn giản, dễ hiểu, và dễ so sánh. EPS được
    coi là đáp ứng tốt các yêu cầu này. Lý do thứ hai rất đơn giản, EPS là
    chỉ tiêu được sử dụng một cách phổ biến nhất và xuất hiện với tần suất
    nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng, đến mức người ta
    mặc nhiên coi nó là quan trọng mà chẳng cần hỏi lý do. Cuối cùng, giống
    như các nhà đầu tư, các chuyên gia phân tích tài chính (financial
    analysts) và các ngân hàng đầu tư (investment banks) cũng muốn có một
    chỉ tiêu tổng hợp để thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá, dự báo
    tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, và họ cũng chọn EPS.

    EPS và các giá trị tham chiếu (benchmarks)

    Khi
    đã có trong tay số liệu EPS, có lẽ việc đầu tiên mà các nhà phân tích
    thường làm là so sánh với các giá trị tham chiếu (benchmarks). Ba điểm
    tham chiếu thường nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà phân tích
    là điểm 0 (tức là mức EPS bằng 0); EPS của năm trước (hoặc của cùng quý
    năm trước); EPS theo dự báo của các chuyên gia phân tích tài chính
    (analyst forecast) hoặc theo mức EPS kế hoạch của chính doanh nghiệp.
    Các kết quả nghiên cứu cho thấy thị trường phản ứng khá mạnh mẽ mỗi khi
    mức EPS của doanh nghiệp cao hơn hay thấp hơn các điểm tham chiếu này.
    Ví dụ, nghiên cứu của Bartov, Givoly, Hayn (2002 ) đối với các công ty
    niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn 1983-1997 cho thấy
    mức chênh lệch lợi tức cổ phiếu (return) bình quân quý giữa một công ty
    có EPS bằng hoặc cao hơn dự báo của các chuyên gia phân tích (analyst
    forecast) dù chỉ 1 cent và một công ty tương tự nhưng có EPS thấp hơn
    analyst forecast chỉ 1 cent là 3.2% (đây là mức chênh lệch sau khi đã
    loại trừ ảnh hưởng của các yếu tố khác có thể có ảnh hưởng tới lợi tức
    cổ phiếu của các công ty như sai số dự báo, rủi ro).

    Do việc EPS
    cao hơn hay thấp hơn các giá trị tham chiếu có ảnh hưởng lớn tới giá cổ
    phiếu nên môt điều dễ hiểu là các công ty thường cố gắng tránh rơi vào
    tình trạng phải báo cáo EPS thấp hơn các điểm tham chiếu này. Vì vậy,
    trong trường hợp EPS thực tế thấp hơn một chút xíu so với các giá trị
    tham chiếu thì các công ty thường tìm cách “phù phép” báo cáo tài chính
    để có được mức EPS cao hơn. Các kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tượng
    phù phép này khá phổ biến. Ví dụ, Degeorge, Patel, Zeckhauser (1999)
    phân tích các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ giai đoạn
    1974-1996 và phát hiện rằng có rất nhiều (đến mức “bất thường”) các
    công ty báo cáo mức EPS cao hơn 0, hoặc cao hơn EPS năm trước, hoặc cao
    hơn mức dự báo của chuyên gia phân tích tài chính một chút xíu (1-2
    cent), trong khi đó có rất ít công ty báo cáo EPS thấp hơn các giá trị
    tham chiếu này 1-2 cent.

    Vì sao thị trường lại phản ứng mạnh mẽ với các giá trị tham chiếu?

    Degeorge,
    Patel, Zeckhauser (1999) đưa ra một giả thuyết dựa trên Prospect Theory
    rằng con người nói 1182139.jpgchung có xu hướng đánh giá các kết quả
    của một quá trình (outcomes) bằng cách so sánh với các điểm tham chiếu
    (reference points). Khi một công ty công bố mức EPS cho năm hiện tại,
    thông thường mức lợi nhuận năm trước và mức lợi nhuận theo dự báo của
    các chuyên gia phân tích tài chính cũng được công bố kèm theo. Việc
    thường xuyên xuất hiện đồng thời như vậy một cách tự nhiên khiến cho
    hai chỉ tiêu EPS năm trước và EPS dự báo của các chuyên gia phân tích
    tài chính trở thành các điểm tham chiếu quan trọng (benchmarks). Riêng
    đối với điểm tham chiếu 0 thì đặc biệt hơn. Tâm lý sợ thua lỗ (loss
    aversion) khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng phản ứng mạnh mẽ hơn khi
    EPS cao hơn hay thấp hơn điểm tham chiếu này. Cho dù mức chênh lệch chỉ
    là 2 cents nhưng nghe từ “lãi” vẫn thấy thân thương hơn từ “lỗ”.

    Nguyên
    lý chung là như vậy, nhưng trên thực tế phản ứng của thị trường khi EPS
    của doanh nghiệp cao hơn hay thấp hơn các mốc tham chiếu này còn mạnh
    mẽ hơn do tác động của yếu tố tâm lý. Ví dụ, khi một công ty công bố
    EPS cao hơn các mức tham chiếu, giá cổ phiếu của công ty đó thường tăng
    mạnh do:

    Thứ nhất, một số nhà quản lý quỹ (fund managers) có
    thiên hướng ưa thích các công ty có lợi nhuận tăng trưởng. Các fund
    managers này sẽ tăng cường mua cổ phiếu của các công ty có EPS cao hơn
    so với năm trước hoặc so với dự báo của các chuyên gia phân tích tài
    chính, và khi cầu đủ lớn thì giá tất sẽ tăng.

    Thứ hai, các
    chuyên viên phân tích và nhà đầu tư trẻ, thiếu kinh nghiệm thường có xu
    hướng phản ứng thái quá (over-reaction) khi các công ty báo cáo mức EPS
    cao tương đối so với các điểm tham chiếu.

    Ngươc lại, khi một công ty công bố EPS thấp hơn các mức tham chiếu thì giá cổ phiếu của công ty đó thường giảm mạnh do:

    Thứ
    nhất, các nhà đầu tư có xu hướng mặc định rằng mọi công ty đều tìm cách
    phù phép lợi nhuận để có EPS cao hơn các mốc tham chiếu. Vì vậy, khi
    một công ty báo cáo EPS thấp hơn các mốc tham chiếu này thì đó là dấu
    hiệu có điều gì đó bất ổn đối với công ty (đến mức không thể phù phép
    cho EPS cao hơn). Kết quả là giá cổ phiếu của công ty đó nhiều khả năng
    sẽ bị điều chỉnh giảm.

    Thứ hai, các chuyên viên phân tích và nhà
    đầu tư trẻ, thiếu kinh nghiệm thường có xu hướng phản ứng thái quá
    (over-reaction) khi các công ty báo cáo mức EPS thấp hơn so với các
    điểm tham chiếu.

    Thứ ba, thù lao của các fund managers thường
    được xác định trên cơ sở so sánh với kết quả hoạt động của các fund
    managers khác trong cùng kỳ (relative performance evaluation). Vì vậy,
    khi một fund manager phản ứng thái quá đối với EPS thấp hơn mốc tham
    chiếu bằng cách bán ra sẽ kéo theo nhiều fund managers khác bán ra
    theo, khiến cho giá cổ phiếu càng giảm. Thứ tư, một số hedge funds sử
    dụng các chương trình bán ra tự động (automatic sell programs). Các
    chương trình này có thể được thiết kế để tự động đặt lệnh bán khi EPS
    thấp hơn một số điểm tham chiếu, tạo ra hiện tượng bán ồ ạt dẫn tới giá
    cổ phiểu bị giảm (Xem Raigopal, Shivakumar, Simpson [2007] ).

    Tóm
    lại, dường như lý do quan trọng nhất khiến EPS được ưa thích là do tính
    “dễ sử dụng” và “được thừa nhận rộng rãi” của chỉ tiêu này hơn là bản
    chất kinh tế (economic fundamentals) của nó. Mặc dù các chuyên gia phân
    tích tài chính luôn khẳng định rằng EPS là một chỉ tiêu tổng hợp phản
    ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng những băn
    khoăn không phải là không có lý. Liệu một con số có thể tổng hợp được
    tình hình hoạt động của cả một doanh nghiệp với muôn vàn các sự kiện
    trong suốt một năm không? Câu trả lời chưa có, nhưng lâu nay cả thế
    giới người ta dùng EPS mà có làm sao đâu nhỉ. Thôi thì lại theo phương
    châm: cái gì tồn tại thì có lý.

  4. #4
    RonnieTync Guest
    Mô hình cơ bản tính giá trị nội tại[/B]Tính toán giá trị nội tại của cổ phiếu bằng phương pháp dòng tiền là một việc hết sức quan trọng trong chiến lược đầu tư giá trị. Tuy vậy, việc này có vẻ như là một bài toán khó đối với những nhà đầu tư không chuyên về tài chính. Ông Lâm Minh Chánh, nhà nghiên cứu tài chính độc lập, đã viết bài này nhằm giải thích và cung cấp một số cách tính giá trị nội tại đơn giản.

    Chiến lược đầu tư theo giá trị nội tại

    Chiến lược đầu tư theo giá trị nội tại là tìm kiếm những cổ phiếu undervalued, tức là những cổ phiếu được thị trường định giá thấp hơn giá trị của công ty.

    Nhà đầu tư theo chiến lược đầu tư giá trị sẽ mua cổ phiếu khi nhận thấy giá trị nội tại của nó thấp hơn thị giá (underpriced). Khi đó, nhà đầu tư sẽ nhận được lợi nhuận, giá trị hiện tại của lợi nhuận này chính là sự khác biệt của giá trị nội tại và thị giá. Trên đồ thị, khoản cách biệt giữa thị giá (đường màu đen) và giá trị nội tại (đường màu đỏ) được thể hiện là đoạn màu đỏ. Khi dự tính mua, đó chính là biên độ an toàn (margin of safety), còn khi nó thật sự xảy ra thì đó chính là lợi nhuận đầu tư. Vấn đề chính của nhà đầu tư giá trị là dự tính cho được giá trị nội tại của cổ phiếu.

    Giá trị nội tại

    Giá trị nội tại dịch từ chữ intrinsic value. Chữ “nội tại” cho thấy rõ rằng, đây là giá trị bên trong, nội tại của tài sản, chứ không phụ thuộc vào yếu tố thị trường bên ngoài. Nói một cách khác, thị trường định giá tài sản như thế nào là quyền của thị trường, nhưng tài sản sẽ luôn cung cấp cho người sở hữu một giá trị nhất định. Giá trị đó không gì khác hơn chính là những dòng tiền mà người làm chủ tài sản sẽ nhận được. Trong trường hợp làm chủ tài sản đó vô thời hạn thì nhà đầu tư sẽ nhận được toàn bộ các dòng tiền trong tương lai. Còn nếu làm chủ một thời gian dài, ví dụ 7 năm, thì dòng tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là toàn bộ dòng tiền trong thời hạn 7 năm đó, và số tiền thu được khi bán tài sản đó vào thời điểm 7 năm sau. Thế nhưng để xác định giá của cổ phiếu vào thời điểm 7 năm sau thì người ta lại cũng sẽ xác định những dòng tiền cổ phiếu đó mang lại trong tương lai, tức là từ sau năm thứ 7 trở đi. Nói một cách khác, dù giữ 7 năm, hay giữ vô thời hạn, thì giá trị mà chúng ta có thể nhận được từ tài sản đó chính là giá trị của tất cả các dòng tiền trong tương lai do tài sản đó đem lại. Và vì tiền có giá trị thời gian, chúng ta không thể cộng các dòng tiền đó với nhau, mà phải chiết khấu các dòng tiền về theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định.

    Các loại dòng tiền

    Dòng tiền cổ tức. Đây chính là dòng cổ tức trả bằng tiền mặt. Một điều chúng ta cần phải nhớ rằng, cổ tức trả bằng cổ phiếu không được tính là dòng tiền cổ tức. Tỷ lệ chiết khấu được dành cho dòng tiền này gọi là chi phí của vốn chủ sở hữu. Công ty có rủi ro cao thì chi phí vốn chủ sở hữu càng cao. Công ty có rủi ro thấp thì chi phí vốn chủ sở hữu thấp hơn. Việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu này khá phức tạp và có thể nói là chưa thể áp dụng một cách chính xác tại Việt Nam. Theo cách làm hiện tại của các công ty đầu tư, chi phí vốn chủ sở hữu đối với các công ty trung bình, có thể áp dụng mức 15%. Nếu công ty có rủi ro cao thì áp dụng mức cao hơn 15%, và ngược lại. Chiết khấu các dòng tiền cổ tức về hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu chi phí vốn chủ sở hữu, rồi cộng chúng lại chúng ta sẽ có giá trị nội tại của cổ phiếu.

    Dòng tiền thuần của chủ sở hữu là dòng tiền còn lại của vốn chủ sở hữu sau khi đã trả lãi và nợ gốc, trang trải các chi phí bảo trì tài sản hiện hành cũng như tạo ra các tài sản mới cho sự tăng trưởng trong tương lai, viết tắt là FCFE (free cash flow to equity investors) được tính như sau:

    FCFE = lợi nhuận ròng + khấu hao - chi tiêu tài sản cố định thuần - tăng vốn lưu động - các khoản trả nợ gốc + các khoản phát hành nợ mới

    Dòng tiền thuần này cũng dùng tỷ lệ chiết khấu giống như dòng tiền cổ tức, tức là chi phí của vốn chủ sở hữu. Chiết khấu các dòng tiền FCFE về hiện tại theo tỷ suất vốn chủ sở hữu, cộng chúng lại chúng ta sẽ có giá trị nội tại của toàn bộ vốn chủ sở hữu. Chia giá trị này cho toàn bộ số cổ phiếu hiện hành ta sẽ có giá trị của từng cổ phần (trong trường hợp công ty có cổ phiếu ưu đãi thì chúng ta phải trừ đi giá trị của các cổ phần ưu đãi).

    Dòng tiền thuần công ty là dòng tiền được sở hữu bởi toàn bộ chủ sở hữu và toàn bộ chủ nợ của công ty, viết tắc là FCFF (free cash flow to the firm)

    FCFF = Lợi nhuận trước lãi vay và thuế x (1 - thuế suất) + chi phí khấu hao - chi tiêu tài sản cố định thuần - tăng giảm vốn lưu động

    Tỷ lệ chiết khấu dành cho dòng tiền thuần công ty là WACC (weighted average cost of capital), tạm dịch là chi phí sử dụng vốn của công ty. WACC bằng trung bình gia quyền của chi phí vốn chủ sở hữu và chi phí vốn vay. Chiết khấu các dòng tiền FCFF về hiện tại theo tỷ suất WACC, cộng chúng lại chúng ta sẽ có giá trị nội tại của toàn bộ công ty. Trừ đi giá trị của nợ ta sẽ được giá trị vốn chủ sở hữu. Chia giá trị này cho toàn bộ số cổ phiếu hiện hành ta sẽ có giá trị của từng cổ phần.

    Các dòng tiền nói trên có thể giả định theo các mô hình khác nhau: mô hình tăng trưởng 1 giai đoạn, 2 giai đoạn, 3 giai đoạn. Thường thì giai đoạn cuối cùng hoặc là dòng tiền đều, hoặc là tăng trưởng bền vững. Mô hình tăng trưởng cũng như tốc độ tăng trưởng chỉ có thể được dự đoán sau khi chúng ta nghiên cứu kỹ. Đầu tiên là phân tích môi trường vĩ mô, tình hình ngành, tình hình cônhg ty (lợi thế cạnh tranh, hướng đi tương lai, cơ cấu vận hành, các chỉ số tài chính). Một điều cần lưu ý là tỷ lệ tăng trưởng bền vững phải nhỏ hơn hay cao nhất là bằng tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Không có doanh nghiệp nào có thể tăng trưởng mãi mãi với tốc độ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng chung của nền kinh tế.

    Ví dụ1: một công ty chia 1.000 đồng cổ tức vào năm nay. Sau khi phân tích tình hình, chúng ta giả định rằng, dòng cổ tức sẽ tăng trưởng 40% trong 3 năm đầu, 20% trong 5 năm sau, 7% tăng trưởng bền vững. Công ty này có độ rủi ro khá cao nên tỷ lệ chiết khấu là 18%. Giá trị nội tại dự tính của cổ phiếu công ty này là: 1.000 x 52 = 52.000 đồng.

    Ví dụ 2: một công ty có dòng tiền thuần của vốn chủ sở hữu năm nay là 30 tỷ đồng. Sau khi phân tích tình hình, chúng ta giả định rằng, dòng cổ tức sẽ tăng trưởng 20% trong 3 năm đầu, 12% trong 5 năm sau, 6% tăng trưởng bền vững. Công ty này có độ rủi ro trung bình nên tỷ lệ chiết khấu là 15%. Giá trị của toàn bộ vốn chủ sở hữu là: 30 x 26 = 780 tỷ đồng. Công ty không có cổ phiếu ưu đãi, chỉ có 4 triệu cổ phần phổ thông, giá trị nội tại dự tính của cổ phiếu công ty này là: 780 tỷ đồng/4 triệu cổ phiếu = 195.000 đồng.


  5. #5
    StephenJox Guest
    Chỉ số "PE" là gì? Cẩn thận với chỉ số "PE"


    Chỉ số P/E viết tắt theo cụm từ tiếng Anh là “Price per Earnings”,
    Chỉ số PE của một cổ phiếu chính là tỉ số giữa thị giá và lợi nhuận của công ty phát hành cổ phiếu trong 1 năm. Ví dụ, trong năm vừa qua công ty X thu được lợi nhuận là 1 ngàn đồng trên mỗi cổ phiếu, hiện nay trên thị trường thì cổ phiếu X có thị giá là 12 ngàn đồng, khi đó ta nói PE của X là 12 (=12 ngàn/1 ngàn). Hay nói cách khác, bạn bỏ ra 12 đồng để có được 1 đồng lợi nhuận mỗi năm khi sở hữu cổ phiếu X. Nếu công ty X vẫn giữ vững tốc độ lợi nhuận như hiện nay, thì sau 12 năm xem như bạn thu hồi lại được số tiền ban đầu.
    Đối với chỉ số P/E, theo thông lệ quốc tế, khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được chỉ tính đến cổ tức và giá cổ phiếu chênh lệch giữa giá mua và giá bán, thì ở nước ta biến số E có độ mở và rất lớn. Thứ nhất, đó là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư chứng khoán, đầu tư cổ phiếu OTC ở nước ta có được bao gồm cả quyền mua cổ phiếu tăng vốn. Do yêu cầu mở rộng kinh doanh và các quy định về tỷ lệ an toàn, quy định pháp luật, nên nhiều doanh nghiệp cổ phiếu định kỳ phải phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán cổ phần và công ty bảo hiểm cổ phần. Cổ phiếu phát hành mới theo mệnh giá hoặc theo giá thoả thuận có khoảng cách chênh lệch lớn trên thị trường OTC, nên đây là một khoản thu nhập lớn trên mỗi cổ phiếu.
    Trung tuần tháng 1/2007, khi thông tin Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Hà Nội- SHB sẽ phát hành cổ phiếu mới với tỷ lệ 1:1, tức là cứ sở hữu 1 cổ phiếu được mua thêm 1 cổ phiếu mới bằng mệnh giá, lập tức giá cổ phiếu trên thị trường OTC của SHB tăng từ 2,9 triệu đồng/cổ phiếu lên 4,6 triệu đồng/cổ phiếu.
    Thứ hai là các doanh nghiệp chia cổ phiếu cho người đang sở hữu cổ phiếu từ nguồn quỹ thặng dư vốn. Đây mới là hai khoản thu nhập lớn nhất mà nhà đầu tư có được. Cụ thể như Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) bán cổ phần cho một nhóm nhà đầu tư chiến lược là các tập đoàn tài chính lớn của Nhật Bản theo giá thoả thuận, phần chênh lệch giá mệnh giá và giá thoả thuận chính người sở hữu hay cổ đông được hưởng.
    Hoặc VP Bank bán 10% cho tập đoàn ngân hàng OCBC của Singapore, khoản chênh lệch giữa giá bán thoả thuận cổ phiếu với mệnh giá gốc cổ đông của VP Bank được chia bằng cổ phiếu với tỷ lệ 35%, tức là cứ sở hữu 100 cổ phiếu thì được chia thêm 35 cổ phiếu.
    Thứ ba là thu nhập của người sở hữu cổ phiếu từ nguồn thu nhập bất thường khác của doanh nghiệp. Đó là các khoản bán tài sản và khoản thu được nợ đọng. Tài sản khi cổ phần hoá hay hạch toán hiện tại theo giá gốc hay theo giá trên sổ sách, nhưng do đầu tư liên doanh liên kết hay bán tài sản, phần chênh lệch giữa giá thị trường tại thời điểm góp vốn hay thời điểm bán được chia cho cổ đông.

    Chẳng hạn, trong năm 2006, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB) chuyển nhượng khách sạn ASEAN với giá trên 290 tỷ đồng, sau khi trừ các chi phí, khoản thu nhập lớn này cộng với một số khoản thu nhập tích luỹ khác, hết năm 2006, cổ đông của MB được chia cổ phiếu với tỷ lệ 42%, tức là cứ sở hữu 100 cổ phiếu trọn 1 năm thì được chia thêm 42 cổ phiếu.
    Hoặc trong năm 2005, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank) thu được khoản nợ xấu 105 tỷ đồng của Công ty Việt Hà, khoản tiền này được đưa vào thu nhập bất thường, cổ đông của Eximbank được hưởng. Như vậy, việc tính chỉ số P/E đối với cổ phiếu của các doanh nghiệp ở nước ta không thuần tuý chỉ có cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu như thông lệ quốc tế, mà có các khoản thu nhập khác rất lớn.
    Do đó, khi công bố chỉ số P/E của các doanh nghiệp niêm yết hay chưa niêm yết ở nước ta, để khuyến cáo việc tăng giá nóng của cổ phiếu, cần lưu ý cách tính chỉ số P/E nói trên để không gây tác động xấu đến cả thị trường OTC và thị trường niêm yết.

  6. #6
    Ngày tham gia
    Aug 2023
    Bài viết
    33
    Sử dụng thông tin trong báo cáo tài chính [/B]
    Bài viết này không bàn về khía cạnh chất lượng kiểm toán ở Việt Nam và tính minh bạch của các báo cáo tài chính được công bố trên thị trường, mà tập trung vào thảo luận một số khía cạnh cơ bản của chế độ kế toán Việt Nam cũng như ảnh hưởng của nó đến thông tin tài chính mà nhà phân tích cần "xử lý" trước khi sử dụng trong định giá cổ phiếu.


    Khái quát


    Các nhà phân tích cơ bản thường xác định giá trị cổ phiếu bằng quy trình gồm năm bước sau:


    - Tìm hiểu ngành nghề kinh doanh: đánh giá triển vọng của ngành nghề, lợi thế cạnh tranh và chiến lược của DN để phát triển ngành nghề đó. Các nhà phân tích sử dụng những thông tin này kết hợp với phân tích báo cáo tài chính để dự đoán triển vọng trong tương lai của DN.


    - Dự đoán triển vọng của DN: dự đoán doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền và dự đoán tình hình tài chính. Đây là dữ liệu cơ bản cần thiết cho các mô hình định giá cổ phiếu.


    - Lựa chọn mô hình định giá thích hợp.


    - Sử dụng các dữ liệu dự đoán để định giá cổ phiếu dựa trên mô hình đã chọn.


    - Kết luận và đưa ra quyết định đầu tư hoặc khuyến nghị đầu tư.


    Chúng ta có thể nhận thấy, thông tin tài chính đóng một vai trò quan trọng trong quy trình xác định giá trị cổ phiếu nêu trên. Thông thường, việc dự đoán triển vọng của DN được thực hiện dựa trên phân tích và đánh giá các thông tin tài chính hiện tại và quá khứ. Vì vậy, chất lượng của thông tin tài chính, phần lớn được phản ánh trong các báo cáo tài chính, có ảnh hưởng đáng kể đến độ tin cậy của kết quả định giá.


    Giới hạn của thông tin tài chính trong báo cáo tài chính


    Chất lượng của thông tin tài chính được quyết định bởi các yếu tố chính sau:


    - Hệ thống kế toán mà DN đang áp dụng trong việc ghi chép giao dịch và lập báo cáo tài chính. Một hệ thống kế toán được xây dựng và ban hành phù hợp với nền kinh tế thị trường sẽ tạo nền tảng để các báo cáo tài chính phản ánh một các nhất quán và đầy đủ về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN dựa trên các quy ước và nguyên tắc được công nhận rộng rãi.


    - Tính minh bạch trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính được kiểm toán hoặc soát xét thường có tính minh bạch cao hơn so với các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán hoặc chưa được soát xét.


    Bài viết này không bàn về khía cạnh chất lượng kiểm toán ở Việt Nam và tính minh bạch của các báo cáo tài chính được công bố trên thị trường, mà tập trung vào thảo luận một số khía cạnh cơ bản của chế độ kế toán Việt Nam cũng như ảnh hưởng của nó đến thông tin tài chính mà nhà phân tích cần "xử lý" trước khi sử dụng trong định giá cổ phiếu.


    Lưu ý, khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần thì điều này có nghĩa là dựa trên các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên xác nhận rằng, các báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ của DN dựa trên chế độ kế toán mà DN đang áp dụng. Tuy nhiên, các chế độ kế toán dù được cập nhật thường xuyên cũng khó thể theo kịp sự phát triển của thị trường, vì vậy nhiều nghiệp vụ kinh tế - tài chính khi được hạch toán theo chế độ kế toán hiện hành có thể không phản ánh đúng bản chất thực của nghiệp vụ


    Ngoài ra, khi sử dụng báo cáo tài chính để dự đoán tương lai DN trong định giá cổ phiếu thì nhà phân tích thường có cái nhìn thiên về tài chính và kinh doanh, trong khi đó, các quy định về kế toán thường được xây dựng dựa trên nguyên tắc thận trọng, đôi khi mang tính cứng nhắc. Các thông tin tài chính được trình bày cũng như các báo cáo tài chính được lập dựa trên những dữ liệu về giao dịch đã xảy ra và được phản ánh theo các nguyên tắc quy ước. Ví dụ, phần lớn các ghi chép phản ánh những giao dịch đã phát sinh hoặc hệ quả của giao dịch đã phát sinh dựa trên nguyên tắc "giá vốn", nhưng một số khoản mục lại được thể hiện tại ngày báo cáo theo giá thị trường.


    Chính vì vậy, người sử dụng thông tin cần phải tìm hiểu kỹ các nghiệp vụ quan trọng và thực hiện một số điều chỉnh cần thiết để đưa các thông tin tài chính từ số liệu kế toán thuần túy sang một "hình thái mới" để có được bức tranh phù hợp hơn về kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của DN cho phù hợp với mục đích phân tích và định giá của mình.


    Các lưu ý liên quan đến thông tin tài chính trình bày trong báo cáo tài chính


    Nhà phân tích cần phải hiểu rõ các thông tin chung liên quan đến nghiệp vụ và số dư, sau đó đi vào các khía cạnh chi tiết để đánh giá tính thích hợp của việc đo lường, đánh giá và ghi chép các nghiệp vụ và số dư này, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh hoặc sắp xếp lại số liệu tài chính cho phù hợp với mục đích và mô hình phân tích. Sau đây là các khía cạnh cơ bản cần lưu ý:




  7. #7
    Ngày tham gia
    Aug 2023
    Bài viết
    33
    A. Thuyết minh báo cáo tài chính và công bố thông tin


    Khi đọc báo cáo tài chính, nhà phân tích cần lưu ý rằng, có những thông tin rất quan trọng, chỉ có thể tìm thấy được trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Thành phần chủ yếu của thuyết minh báo cáo tài chính bao gồm:


    - Thông tin về DN. Phần này nêu những thông tin chung và khái quát về DN. Nhà phân tích cần lưu ý đến phần đặc điểm hoạt động của DN trong năm có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính.


    - Chuẩn mực và chế độ kế toán, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán.


    - Các chính sách kế toán đang áp dụng. Phần này nêu các phương pháp kế toán của DN, nó giúp cho nhà phân tích có cái nhìn đầy đủ và rõ ràng hơn về tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN, vì các số liệu kế toán bị ảnh hưởng rất nhiều bởi một phương pháp kế toán mà DN đang áp dụng. Ví dụ như chính sách ghi nhận doanh thu trong hoạt động kinh doanh bất động sản, chính sách khấu hao tài sản cố định…


    - Thông tin bổ sung cho các khoản mục trong báo cáo tài chính. Phần này cung cấp thêm chi tiết, các khía cạnh đặc biệt của một khoản mục mà người sử dụng thông tin cần phải biết để hiểu rõ khoản mục đó.


    - Những thông tin khác. Phần này thường nằm ở cuối báo cáo tài chính, nhưng nó không kém phần quan trọng. Các thông tin mà nhà phân tích cần lưu ý bao gồm: các khoản nợ tiềm tàng, các cam kết có giá trị lớn, sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán, thông tin về các bên liên quan, thông tin về khả năng hoạt động liên tục, các khoản điều chỉnh số liệu so sánh…

    Cần lưu ý rằng, chế độ kế toán Việt Nam quy định khá nhiều về các thông tin cần công bố. Tuy nhiên, nó vẫn đi chậm hơn so với yêu cầu của thị trường. Chẳng hạn như chế độ kế toán Việt Nam chưa quy định về việc công bố thông tin liên quan đến đánh giá và quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường… Những thông tin này rất quan trọng để đánh giá một DN trong môi trường kinh doanh đang có nhiều thay đổi như hiện nay.
    Tiếp theo kỳ trước ông Võ Trường Sơn sẽ chia sẻ kinh nghiệm sử dụng thông tin trong các báo cáo tài chính được lập theo chế độ kế toán Việt Nam khi xác định giá trị cổ phiếu ở kỳ 2 của bài viết này.


    B. Vấn đề đo lường, đánh giá, ghi chép nghiệp vụ và số dư kế toán


    Các chi phí nhân công "ẩn" - chi lương bằng cổ phiếu


    Tại Việt Nam, nhiều người lao động sẵn sàng rời bỏ công việc với mức lương trên 3.000 USD/tháng (khoảng 50 triệu đồng/tháng) tại một DN có vốn đầu tư nước ngoài để sang làm việc cho một công ty cổ phần trong nước với mức lương hợp đồng chỉ khoảng 15 triệu đồng/tháng. Lý do cơ bản là ngoài khoản lương theo hợp đồng thì người lao động còn được hưởng các khoản thù lao hậu hĩnh khác như thưởng bằng cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu với giá thấp hơn giá thị trường, các khoản thưởng bằng tiền chi từ quỹ khen thưởng, phúc lợi. Chế độ kế toán Việt Nam không quy định DN phải hạch toán các khoản này vào chi phí hoạt động làm cho chi phí nhân viên bị phản ánh thấp hơn giá trị thực tế phát sinh. Người sử dụng thông tin cần thực hiện điều chỉnh để phản ánh các khoản thù lao này vào chi phí hoạt động và tính toán lại ảnh hưởng vào kết quả hoạt động kinh doanh.




  8. #8
    imported_starphar1905 Guest
    Chi phí lãi vay "ẩn" - lãi suất danh nghĩa hay lãi suất thị trường?


    DN có thể vay nợ theo nhiều phương pháp khác nhau, chẳng hạn vay từ các định chế tài chính theo lãi suất thị trường hoặc phát hành trái phiếu chuyển đổi với lãi suất được thỏa thuận thấp hơn lãi suất thị trường. Ví dụ, DN vay 100 tỷ đồng với lãi suất thị trường là 12%/năm thì chi phí lãi vay là 12 tỷ đồng/năm. DN có thể giảm lãi vay bằng cách phát hành 100 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi, lãi suất 5%/năm kèm theo điều khoản chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, với giá chuyển đổi hấp dẫn so với giá thị trường. Theo cách này, số lãi vay hàng năm chỉ là 5 tỷ đồng. Do chế độ kế toán Việt Nam chưa yêu cầu DN phản ánh chi phí lãi vay theo lãi suất thị trường (nghĩa là dùng lãi suất thị trường 12% để chiết khấu các dòng tiền của trái phiếu chuyển đổi về hiện giá và hạch toán chi phí lãi vay dựa trên lãi suất 12%; số chênh lệch giữa 100 tỷ đồng thu được từ phát hành trái phiếu chuyển đổi và hiện giá dòng tiền của trái phiếu này được hạch toán vào vốn chủ sở hữu) nên các DN có khuynh hướng hạch toán chi phí lãi vay theo lãi suất danh nghĩa (trong ví dụ trên là 5%). Điều này làm cho chi phí lãi vay bị phản ánh thấp hơn chi phí lãi vay theo lãi suất hợp lý. Người sử dụng thông tin cần phải xem xét điều chỉnh để đưa chi phí lãi vay về giá trị thực của nó.


    Giá trị hợp lý của các khoản đầu tư chứng khoán


    Chế độ kế toán Việt Nam quy định phương pháp đánh giá và hạch toán các khoản đầu tư chứng khoán đối với các DN thuộc những lĩnh vực ngành nghề khác nhau như sau: (1) Phản ánh theo giá trị hợp lý: quy định này chỉ áp dụng đối với các quỹ đầu tư; (2) Phản ánh theo số thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện được: quy định này áp dụng cho công ty quản lý quỹ, ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và các DN sản xuất, thương mại, dịch vụ. Khi sử dụng thông tin tài chính của các đơn vị thuộc trường hợp (2), người sử dụng thông tin cần thực hiện đánh giá lại các khoản đầu tư chứng khoán theo giá trị hợp lý và điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận để phản ánh ảnh hưởng của sự thay đổi giá trị hợp lý của các khoản đầu tư.


    Tổn thất do suy giảm giá trị tài sản và tài sản thiếu chờ xử lý


    Chế độ kế toán Việt Nam chưa quy định về việc đánh giá và hạch toán khoản tổn thất do suy giảm giá trị tài sản. Trong điều kiện mà những thay đổi công nghệ, thị hiếu tiêu dùng và môi trường kinh doanh diễn ra nhanh chóng như hiện nay, máy móc thiết bị và tài sản dài hạn của DN có thể dễ dàng bị lạc hậu và suy giảm giá trị. Suy giảm giá trị xảy ra khi giá trị của các lợi ích kinh tế có thể thu hồi được trong tương lai từ việc sử dụng hay bán tài sản này thấp hơn so với giá trị sổ sách.


    Khi tài sản bị suy giảm giá trị nhưng vẫn được báo cáo theo giá lịch sử thì thông tin tài chính sẽ bị phản ánh sai lệch. Nhà đầu tư cần thực hiện điều chỉnh để đưa tài sản này về giá trị có thể thu hồi và ghi nhận khoản suy giảm giá trị vào chi phí.


    Chế độ kế toán Việt Nam quy định, khi DN kiểm kê và phát hiện tài sản thiếu nhưng chưa rõ nguyên nhân thì phải hạch toán giá trị các tài sản này vào tài khoản Tài sản thiếu chờ xử lý và trình bày trong mục tài sản trên bảng cân đối kế toán. Dưới góc độ phân tích tài chính và định giá cổ phiếu, người sử dụng thông tin cần đánh giá xem khả năng thu hồi của các tài sản thiếu chờ xử lý này có chắc chắn hay không. Nếu không chắc chắn thu hồi được thì cần phải điều chỉnh vào chi phí, chứ không "treo" lại trên bảng cân đối kế toán.


    Kế toán ngành nông nghiệp


    Theo chế độ kế toán Việt Nam, các tài sản sinh học như vườn cây lâu năm, đàn gia súc, gia cầm được phản ánh theo giá trị của chi phí chăm sóc, nuôi trồng phát sinh cho đến ngày trưởng thành và khai thác trừ khoản khấu hao lũy kế. Còn đối với sản phẩm dở dang thì phản ánh theo giá trị của chi phí sản xuất - kinh doanh dở dang phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bắt đầu một chu kỳ của mùa vụ cho đến ngày kết thúc năm tài chính. Phương pháp kế toán này làm cho số liệu về giá trị của các tài sản sinh học và sản phẩm dở dang được báo cáo xa rời giá trị hợp lý của chúng.


    Khi sử dụng thông tin tài chính liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp trong việc định giá cổ phiếu, có thể tham khảo phương pháp kế toán theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 41 (Kế toán nông nghiệp) để đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp. Cụ thể là tài sản sinh học và sản phẩm dở dang được đánh giá theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí ước tính để tạo ra tài sản/sản phẩm ở trạng thái sẵn sàng để bán. Khoản lãi (lỗ) từ việc tăng (giảm) giá trị tài sản/sản phẩm được hạch toán vào kết quả hoạt động kinh doanh.




  9. #9
    imported_hoangduy2579 Guest
    Chi phí đi vay


    Chế độ kế toán Việt Nam cho phép DN lựa chọn một trong hai phương pháp hạch toán chi phí đi vay là hạch toán vào chi phí tài chính trong kỳ phát sinh hoặc hạch toán vào giá trị tài sản xây dựng, lắp đặt nếu thời gian xây dựng, lắp đặt dài hơn một năm. Khi định giá cổ phiếu dựa trên dòng tiền tự do, cần điều chỉnh các khoản chi phí đi vay mà DN đã hạch toán vào giá trị tài sản ra khỏi dòng tiền tự do và loại bỏ khoản này trong chi phí khấu hao, vì chi phí đi vay không phải là một bộ phận của dòng tiền tự do thuộc về cổ đông.


    Chênh lệch tỷ giá hối đoái


    Chế độ kế toán Việt Nam quy định: trong giai đoạn đầu tư xây dựng để hình thành tài sản cố định của DN mới thành lập, chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh khi thanh toán các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ để thực hiện đầu tư xây dựng và chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh khi đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính được phản ánh lũy kế, riêng biệt trên bảng cân đối kế toán. Khi tài sản cố định hoàn thành đầu tư xây dựng đưa vào sử dụng thì chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong giai đoạn đầu tư xây dựng được phân bổ dần vào thu nhập hoặc chi phí hoạt động kinh doanh trong thời gian tối đa là 5 năm.


    Dưới góc độ phân tích tài chính và định giá cổ phiếu, các khoản chênh lệch tỷ giá này cần được điều chỉnh như sau:


    - Định giá cổ phiếu dựa vào hiện giá dòng tiền: chênh lệch tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh vào dòng tiền của năm tương ứng với dòng tiền thực thu/chi.


    - Định giá cổ phiếu dựa trên thu nhập/lợi nhuận: chênh lệch tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh vào thu nhập (chi phí) tài chính của năm phát sinh.


    Bất động sản đầu tư


    Bất động sản đầu tư bao gồm quyền sử dụng đất, nhà hoặc một phần của cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng được nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá để bán. Theo chế độ kế toán Việt Nam, bất động sản đầu tư được phản ánh theo nguyên giá trừ giá trị khấu hao lũy kế. Giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư được trình bày như một thông tin bổ sung trong thuyết minh báo cáo tài chính. Khi phân tích thông tin tài chính và sử dụng cho định giá cổ phiếu, cần điều chỉnh các bất động sản đầu tư từ giá gốc về giá trị hợp lý.


    Sử dụng thông tin trong báo cáo tài chính


    Bài viết này chỉ là một số thảo luận trên khía cạnh kế toán thuần túy liên quan đến việc sử dụng thông tin tài chính trong báo cáo tài chính được lập theo chế độ kế toán Việt Nam. Bài viết không đặt mục tiêu nêu lên tất cả các tình huống trong thực tiễn mà nhà đầu tư cần phải xem xét điều chỉnh.


    C. Một số "nghiệp vụ đặc biệt"


    Giao dịch với bên liên quan thuộc "tầm ảnh hưởng" của DN hoặc giao dịch với bên liên quan cùng chịu sự kiểm soát bởi một chủ thể


    Một DN hoặc chủ sở hữu chính của DN đó có thể thiết lập một "đơn vị đặc biệt" và sử dụng đơn vị này cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có mục đích giúp DN "điều hòa" hoặc "làm đẹp" các chỉ tiêu của báo cáo tài chính. Chẳng hạn, khi DN không đạt được chỉ tiêu doanh thu hay lợi nhuận mong muốn thì có thể tiến hành "bán" hàng hóa, tài sản cho đơn vị đặc biệt để tạo doanh thu và lợi nhuận.


    Chế độ kế toán Việt Nam quy định về việc hợp nhất báo cáo tài chính và loại trừ các khoản doanh thu cùng với lợi nhuận chưa thực hiện của giao dịch giữa công ty mẹ với công ty con, chứ không quy định loại trừ lợi nhuận chưa thực hiện của giao dịch giữa công ty mẹ với công ty liên kết. Còn đối với các giao dịch giữa DN với "đơn vị đặc biệt", trong đó công ty mẹ không nắm quyền sở hữu cổ phiếu thì chế độ kế toán Việt Nam chỉ yêu cầu công bố thông tin về các giao dịch này trong thuyết minh báo cáo tài chính, chứ không yêu cầu xem xét bản chất thực tế của mối quan hệ để hạch toán và loại trừ cho phù hợp.


    Người sử dụng thông tin cần đọc kỹ thuyết minh báo cáo tài chính về nghiệp vụ với các bên liên quan để xem xét bản chất thực của các nghiệp vụ và tính thích hợp của các điều khoản giao dịch. Khi các giao dịch này không có ý nghĩa kinh tế thực sự hoặc các điều khoản giao dịch xa rời với thị trường thì người sử dụng thông tin cần thực hiện các điều chỉnh thích hợp để đưa các chỉ tiêu tài chính trở về giá trị và bản chất thực của nó.




  10. #10
    imported_hoangduy2579 Guest
    Lợi thế thương mại phát sinh trong hợp nhất kinh doanh


    Chế độ kế toán Việt Nam quy định, khoản lợi thế thương mại phát sinh trong hợp nhất kinh doanh phải được phân bổ trong khoảng thời gian không quá 10 năm và khoản phân bổ này được hạch toán vào chi phí trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất. Quy định này khác với quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành, theo đó lợi thế thương mại phát sinh từ hợp nhất kinh doanh không được phân bổ, nhưng DN phải đánh giá khả năng suy giảm giá trị và nếu có thì khoản suy giảm giá trị phải được hạch toán vào chi phí trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất.


    Dưới góc độ tài chính thì khoản chi phí phát sinh từ phân bổ lợi thế thương mại hay suy giảm giá trị lợi thế thương mại cần phải được lưu ý loại trừ ra khỏi kết quả kinh doanh khi sử dụng số liệu kế toán để dự đoán triển vọng trong tương lai của DN, vì khoản này thuộc về hoạt động đầu tư, chứ không thuộc về các dòng thu nhập/chi phí từ hoạt động kinh doanh chính của DN.


    Các khoản thu nhập (chi phí) phát sinh bất thường, lợi nhuận (lỗ) của lĩnh vực ngừng hoạt động kinh doanh


    Khi định giá cổ phiếu dựa vào dòng lợi nhuận dài hạn của DN, nhà đầu tư cần tách các khoản bất thường và các khoản không thuộc hoạt động kinh doanh chính và bền vững ra khỏi chỉ tiêu lợi nhuận. Chẳng hạn, cần phải tách ra khỏi chỉ tiêu lợi nhuận các khoản lãi (lỗ) do bán tài sản cố định, lãi (lỗ) kinh doanh chứng khoán của các DN không chuyên, lãi (lỗ) của mảng kinh doanh bị bán hoặc tách ra khỏi DN.


    Nhà đầu tư có thể tìm thấy chi tiết về các khoản lãi (lỗ) bất thường và thu nhập (chi phí) hoạt động tài chính trong thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, chế độ kế toán Việt Nam chưa quy định DN phải trình bày và công bố thông tin về lãi (lỗ) của mảng hoạt động kinh doanh bị bán hoặc tách ra khỏi DN. Do đó, nhà đầu tư cần thu thập thêm các thông tin này để thực hiệc các điều chỉnh thích hợp.


    Các công cụ phái sinh


    Công cụ phái sinh là những sản phẩm tài chính được thiết kế và tạo nên từ một loại công cụ cổ điển trên thị trường, như hợp đồng mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi lãi suất, quyền chọn mua, quyền chọn bán… Công cụ phái sinh có thể được sử dụng như một phương pháp dự phòng rủi ro hoặc có thể sử dụng như một nghiệp vụ đầu cơ. Dù được sử dụng cho mục đích nào thì công cụ phái sinh đều mang một giá trị nhất định khi các điều kiện thị trường thay đổi sau ngày công cụ này được xác lập và giao dịch lần đầu.


    Chế độ kế toán Việt Nam chưa có hướng dẫn về phương pháp kế toán và công bố thông tin đối với công cụ phái sinh (riêng chế độ kế toán áp dụng cho ngân hàng thì chỉ yêu cầu trình bày công cụ phái sinh như một tài khoản ngoại bảng, chứ chưa quy định phải đánh giá theo giá trị hợp lý để hạch toán vào bảng cân đối kế toán). Vì vậy, nhà đầu tư cần thu thập thêm thông tin về các nghiệp vụ này để đánh giá ảnh hưởng của nó đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN.


    Kết luận


    Bài viết này chỉ là một số thảo luận trên khía cạnh kế toán thuần túy liên quan đến việc sử dụng thông tin tài chính trong báo cáo tài chính được lập theo chế độ kế toán Việt Nam. Bài viết không đặt mục tiêu nêu lên tất cả các tình huống trong thực tiễn mà nhà đầu tư cần phải xem xét điều chỉnh. Để có thể phân tích thông tin tài chính và thực hiện các điều chỉnh cần thiết một cách toàn diện trong mỗi tình huống cụ thể, nhà đầu tư cần phải hiểu rõ đặc điểm của ngành nghề kinh doanh và nắm vững các nguyên tắc kế toán cũng như các khía cạnh tài chính của mỗi nghiệp vụ. Các thông tin tài chính sau khi "xử lý" lại nên được xem xét trong mối tương quan với các thông tin khác về đơn vị có cổ phiếu được quan tâm, bao gồm cả các thông tin tài chính tương lai, mang tích chất dự báo và các thông tin phi tài chính khác.





    Võ Trường Sơn, Chủ nhiệm kiểm toán cao cấp tại Công ty TNHH Ernst & Young VN


    Nguồn ĐTCK-online








 

Các Chủ đề tương tự

  1. Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 15-08-2017, 11:07 AM
  2. Đầu tư CK, cơ hội lớn để kiếm tiền trong thời gian tới
    Bởi dienkimt trong diễn đàn Nhận định Thị trường
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 14-04-2012, 01:56 PM
  3. Tôi có thể kiếm được lãi trong trường hợp thị trường sụt giảm không?
    Bởi dangnhung76az trong diễn đàn Kiến thức Chứng khoán
    Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 27-03-2012, 10:13 AM
  4. SNG: Dự kiến lãi 20 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm
    Bởi blogthanhlap trong diễn đàn Doanh nghiệp sàn HoSE
    Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 20-09-2010, 10:06 AM
  5. PGT - Hàng ngon giá rẻ - Cơ hội kiếm 200% lợi nhuận trong tháng 6!
    Bởi zadep trong diễn đàn Công ty chiến ở HNX
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 26-05-2010, 12:38 PM

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •