-
05-02-2009, 11:17 AM #11Silver member
- Ngày tham gia
- Oct 2017
- Bài viết
- 0
Vòng tròn thịnh suy của thị trường vốn: Suy luận về bản chất của tài chính hiện đại
Người ta cho rằng, khủng hoảng là thời điểm
tốt nhất để suy nghĩ về sự bền vững. Vì sau đó, đơn giản là sẽ không có
đủ thời gian cho vấn đề này. Tác giả bài viết cho
rằng, bạn đọc không cần “phi như bay” trong việc tìm kiếm kẻ có lỗi đối
với cơn hoạn nạn này mà là cần cố gắng đào bới để tìm ra những nguyên
nhân thực sự của vấn đề tài chính trên thị trường vốn.
Chìm xuống vực sâu[/b]
Vào
tháng Chín năm 2008, cả thế giới rúng động bởi sự phá sản của một trong
những ngân hàng đầu tư lâu đời nhất nước Mỹ - Lehman Brothers và sự sáp
nhập của ngân hàng đầu tư Merrill Lynch vào ngân hàng thương mại lớn
nhất nước Mỹ là Bank of America. Tiếp theo là sự chuyển đổi của hai
ngân hàng đầu tư khổng lồ Goldman Sachs và Morgan Stanley thành mô hình
tập đoàn với quyền được phép sử dụng tiền gửi từ khách hàng cá nhân.
Những
nhà hoạch định chính sách tại Hoa Kỳ và châu Âu đã phản ứng bằng cách
lập tức rót ngay tiền vào thị trường tài chính và điều đó đã tạo ra kết
quả nhất thời. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đó, thị trường vốn lại chìm
sâu xuống đáy một lần nữa.
Dần dần, mọi việc đã trở nên rõ ràng, tương lai của tình trạng hỗn độn dài hạn rộng khắp toàn cầu trên thị trường vốn đã biến thành hiện thực khắc nghiệt.
Truy tìm nguyên nhân sâu xa[/b]
Báo
chí và truyền hình liên tục đưa ra những cáo buộc rằng các nhà tài
phiệt và đầu cơ là những kẻ tham lam, còn các chuyên gia điều chỉnh
luật pháp thì non nớt và không am hiểu vấn đề. Ngày hội đã đến với
những kẻ chống lại cơ chế thị trường và thị trường tài chính. Và cuối
cùng, sự cám dỗ cũng đã tăng lên đề đưa ra toa thuốc nhanh chóng nhằm
cải thiện tình hình và kết tội một ai đó – người phải nhận trách nhiệm
cho vụ việc đã xảy ra.
Khủng
hoảng là thời kỳ lý tưởng để đánh giá lại những cơ sở nền tảng của thị
trường vốn. Sự hiểu biết hiện nay về cơ cấu và chức năng của thị trường
tài chính được dựa trên những bài học của các cuộc khủng hoảng đã từng
xảy ra trước đây, bắt đầu từ khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929.
Tiếc rằng, những cố gắng để tìm ra giải giáp giản đơn cho vấn đề trên thị trường vốn toàn cầu đã dẫn tới những tổn thất to lớn.
Thị trường vốn hoàn hảo và thực tế[/b]
[/b]
Để
phân tích, chúng ta hãy nhớ lại lại hệ biến hóa của thị trường vốn hoàn
hảo (Perfect Capital Market, PCM). Một trong những yếu tố của PCM là
thiếu mất sự bất cân xứng về thông tin. Tất
nhiên, trong thế giới thực, PCM không tồn tại, vì sự bất cân xứng về
thông tin là phần không thể tách rời khỏi các hoạt động của môi trường
xung quanh. Chính sự bất cân xứng về thông tin làm nảy sinh ra những
vấn đề nghiêm trọng, mà bản chất của nó chính là cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu.
Sự bất cân xứng xảo trá
[/b]
Tất
cả những vấn đề gợi ra có thể đưa đến hai phạm trù: sự lựa chọn bất lợi
– (adverse selection) và hành vi thiếu trách nhiệm của nhà môi giới
(moral hazard). Bài báo đầu tiên đề cập đến việc nắm bắt vấn đề này một
cách hệ thống đã được George Akerlof (đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001)thực hiệndưới nhan đề “Thị trường Lemon – chất lượng không được xác định và cơ chế thị trường” ("The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism").
Sự lựa chọn bất lợi
George
Akerlof diễn giải vấn đề này bằng một tình huống tương tự trên thị
trường ô tô đã qua sử dụng. Rõ ràng, người bán hàng luôn luôn hiểu rõ
hơn về chiếc xe của mình so với khách hàng tiềm năng – anh ta đã bị khổ
sở vì hỏng hóc, thay bộ lọc, sửa chữa xe. Ai có thể biết được giá cả
thực sự của chiếc xe ngoài anh ta. Chúng ta cho rằng nó có giá thực là
10.000 USD. Nếu như không có nhu cầu khẩn cấp thì người bán không sẵn
sàng bán với giá thấp hơn giá này.
Ngược
lại, người mua lại nghi ngờ vào chất lượng của chiếc ô tô đang chào
bán. Anh ta hiểu rằng người bán sẽ không có lợi khi nói về các hỏng hóc
của xe. Nếu như không tin vào chất lượng xe, người mua sẽ đặt giá thấp,
ví dụ là 8.000 USD. Theo quan điểm của anh ta thì phần chênh lệch 2.000
USD sẽ bù cho những khiếm khuyết không nhìn thấy được.
Nếu
như không có khiếm khuyết thì người bán từ chối bán xe với mức chiết
khấu 2.000 USD, và người mua sẽ không mua được chiếc xe tốt. Nếu như
người bán đồng ý, điều đó có nghĩa là chiếc xe có giá thấp hơn 8.000
USD và người mua nhận được “vật vô dụng” (Lemon - tiếng lóng của người
Mỹ và được hiểu là “hàng kém chất lượng”).
Trong
cả hai trường hợp, việc định giá công bằng đã không xảy ra, và sự giảm
giá do người mua đưa ra đã dẫn tới việc là anh ta sẽ được đề nghị mua
các xe khác kém chất lượng hơn. Mâu thuẫn này – không
có khả năng sở hữu chiếc xe có chất lượng với giá công bằng khi không
có sự đánh giá khách quan (ví dụ, ý kiến của thợ cơ khí ô tô) - có tên
gọi là “sự lựa chọn bất lợi” (Adverse Selection).
Hậu quả là, trong tác phẩm của mình “Phân bổ tín dụng trong thị trường có thông tin không hoàn hảo” (1981), George Akerlof và đồng tác giả Andrew Weiss đã chỉ ra rằng, sự lựa chọn bất lợi có một vai trò rất tiêu cực trên thị trường vốn. Nó làm nảy sinh một vấn đề như thế này: mức
tăng của lãi suất tín dụng dẫn đến sự tăng trưởng về lợi nhuận của ngân
hàng đồng thời làm giảm chất lượng của người đi vay tín dụng.
Nhiều
nghiên cứu và khảo cứu thực tế kinh doanh cho phép mô tả những vấn đề
cốt yếu của sự lựa chọn bất lợi trên thị trường vốn như sau:
•
Không có khả năng cung cấp tài chính cho các dự án và công ty “tốt”
(nghĩa là có lợi nhuận cao và mức độ rủi ro chấp nhận được);
•
Phân bổ tín dụng hợp lý và thất bại thị trường (market failure) - không
có khả năng tạo ra giá trị và lãi suất công bằng. Hệ quả rõ ràng -
không có hiệu quả thị trường trong điều kiện thiếu thông tin. Kết quả
là xuất hiện một yêu cầu phải giám sát các tài khoản có (nghĩa là việc
vạch rõ chất lượng thực sự của chúng từ quan điểm của nhiều nguy cơ
khác nhau). Nói đúng ra thì vai trò chính yếu của ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác nằm trong việc giám sát này.
Hành
vi thiếu trách nhiệm của các đại lý môi giới. Trong ví dụ bảo hiểm có
thể chỉ ra vấn đề khác nảy sinh do sự bất cân xứng về thông tin. Giả
sử, bạn bảo hiểm toàn phần cho chiếc xe của bạn. Khi đó, sự cần thiết
để điều chỉnh mình một cách thận trọng hơn đã biến mất khỏi đầu bạn –
vì lúc này nếu có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì cũng được công ty
chi trả. Chừng nào không thể theo dõi liên tục hành vi của khách hàng,
thì chừng đó công ty còn phải đặt cược rủi ro vào giá trị bảo hiểm.
Điều
này có tên gọi là moral hazard. Thuật ngữ này thường được dịch là “rủi
ro hoặc là thiệt hại về mặt đạo đức”, khác xa với bản chất của hiện
tượng. Về thực chất, moral hazard được thể hiện trong các động cơ hành
vi gian dối của các đại lý. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, họ
nhận được lợi ích từ các bên đối lập, do phân bổ rủi ro không công
bằng. Hành vi như vậy rất duy lý – việc hiện diện của sự bất cân xứng
về thông tin “xô đẩy” những người bình thường đi đến quyết định mang
lại sự tổn hại cho phía đối tác.
Moral
hazard đặc biệt nguy hiểm trên thị trường vốn. Nếu như các dự án được
tài trợ vốn phần lớn là do đi vay, thì sẽ xảy ra những vấn đề không
bình thường. Việc sử dụng “tiền của người khác” sẽ dẫn tới khả năng là
nếu như kinh doanh tốt, tất cả lợi nhuận sẽ thuộc về công ty, còn nếu
kinh doanh tồi, người cho vay sẽ phải chịu phần lớn khoản lỗ.
Dĩ
nhiên, độc giả sẽ nói rằng: nào hãy từ từ đã, vì chính người cho vay
yêu cầu tài sản cầm cố, nghiên cứu tình hình và sẽ cố gắng không cho
phép những hành động rủi ro từ phía người vay tác động lên mình. Những
hành động này cho phép giảm bớt mức độ gay gắt của việc bất cân xứng
thông tin bằng cách yêu cầu người vay đặt những tài sản riêng có giá
trị (cái này được gọi là “bảo hiểm vay nợ”) hoặc là bằng việc giám sát
người vay tiền.
Một
ví dụ không kém phần đắt giá – hoạt động của các ngân hàng đầu tư Hoa
Kỳ trong những năm gần đây. Tốc độ phát triển mạnh mẽ của khối lượng
các thương vụ đầu tư mạo hiểm – trái phiếu tài sản cho vay cầm cố
(collateralized mortgage obligations - CMO) và các thị trường tín dụng
phái sinh dần dần sẽ dẫn tới sự phá sản của thị trường.
-
07-02-2009, 08:16 AM #12Silver member
- Ngày tham gia
- Jul 2024
- Bài viết
- 12
[quote user="stockwizard"]
Cảm ơn bác pro
Post những bài viết rất hay
[/quote] Bí quyết thành công của nhà đầu tư dài hạnTrên
thị trường chứng khoán ngày nay, có một thực tế là bất kỳ quy luật nào
cũng có trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, vẫn có một vài nguyên tắc có tính chất
“bảo đảm” mà bất cứ nhà đầu tư nào muốn thành công nên quan tâm. Chúng
sẽ là công cụ giúp họ phân tích các xu hướng đầu tư dài hạn, cũng như
lựa chọn được phương thức đầu tư hiệu quả nhất.[/i]
Đó chính là chín nguyên tắc sau đây:
[/b]
1.Bán cổ phiếu mất giá và “tậu” cổ phiếu được giá[/b]
Thông
thường sau một thời gian nếu bạn tính toán thấy khoản đầu tư của mình
đã sinh lợi không nhỏ và chắc chắn những cổ phiếu này sẽ không có khả
năng tăng giá nữa, thì nên bán chúng đi. Tuy nhiên có một số nhà đầu tư
tiếp tục giữ lại những cổ phiếu được họ nuôi hy vọng là có khả năng
phục hồi.
Nếu
một nhà đầu tư không biết thời điểm nào cần “tống khứ” những cổ phiếu
vô vọng thì anh ta sẽ phải nhìn thấy cảnh cổ phiếu của mình xuống giá
đến mức chẳng còn giá trị gì nữa, bán cũng chẳng ai mua. Tất nhiên, ý
tưởng giữ lại các khoản đầu tư “chất lượng cao”, đồng thời bán đi những
cổ phiếu “chất lượng thấp” rất đúng về mặt lý thuyết, nhưng lại cực khó
khi thực hiện. Và những thông tin sau đây có thể giúp bạn:
Mua cổ phiếu đang lên[/i]. Peter
Lynch là người nổi tiếng với bài nói chuyện về “Làm thế nào để khoản
lợi nhuận có thể tăng gấp 10 lần khoản đầu tư”, trong đó đề cập đến
kinh nghiệm của chính bản thân ông.Trong bản danh mục đầu tư của ông,
bạn có thể thấy các khoản lợi nhuận cực lớn mà ông kiếm được từ số vốn
đầu tư cực nhỏ.
Nếu
bạn đưa ra chủ trương bán ngay những cổ phiếu lên giá, thì bạn sẽ không
bao giờ thu được lợi nhuận tối đa. Không ai trong lịch sử đầu tư với lý
thuyết “bán ngay sau khi thấy được lợi gấp ba lần số tiền đầu tư” lại
có thể trở nên giàu gấp 10 lần thời điểm ban đầu. Đừng khư khư “bám”
vào một nguyên tắc cá nhân cứng nhắc nào đó. Nếu bạn không thật hiểu
tiềm năng các khoản đầu tư, thì các nguyên tắc cá nhân cũng chỉ mang
tính tùy hứng và hạn chế mà thôi.
Bán đi những cổ phiếu mất giá[/i].
Không có gì bảo đảm rằng một cổ phiếu sẽ “bay cao” sau khi giảm giá
trong một thời gian dài. Nếu trước khi đầu tư, khả năng đánh giá đâu là
cổ phiếu có triển vọng là rất quan trọng, thì khi đã đầu tư một cái
nhìn chuẩn xác về các khoản đầu tư hiện tại cũng đóng vai trò quan
trọng không kém.
Thông
thường bạn rất khó nhận ra mình sẽ thua lỗ, vì đi cùng với nó là việc
“thừa nhận” mình mắc sai lầm. Vì vậy bạn phải rất thực tế và thành thật
với chính mình rằng cổ phiếu đã đầu tư sẽ không mang lại hiệu quả như
mong đợi. Đừng sợ điều đó ảnh hưởng đến lòng tự trọng của bạn, mà hãy
tìm cách “tống khứ” nó đi trước túi tiền của bạn bị thâm hụt nhiều hơn.
Trong
cả hai trường hợp, điểm cần chú ý nhất là nên đánh giá đúng tiềm năng
của các công ty thông qua nghiên cứu của chính bản thân. Trong mỗi
trường hợp, bạn vẫn sẽ phải tự quyết định “sự lựa chọn” đầu tư thế nào
vào tương lai. Chỉ có điều, hãy nhớ đừng để nỗi sợ hãi lấn át cơ hội
kiếm được nhiều lợi nhuận hoặc đừng quá tự tin vì nó rất có thể sẽ
khiến bạn thâm thủng ngân quỹ nhiều hơn.
2. Đừng mua những cổ phiếu đang là chủ đề “nóng”[/b]
Bất
kể anh em, họ hàng, hàng xóm hay thậm chí là chuyên gia tư vấn có nói
nhiều về chủ đề của một công ty nào đó thì cũng không có gì bảo đảm
rằng cổ phiếu của nó sẽ sinh ra lợi nhuận. Khi bạn đưa ra một quyết
định đầu tư, bạn phải biết rõ lý do tại sao. Bạn cần phải tự mình tiến
hành những nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng trước khi đầu tư một số
tiền lớn mà phải rất khó nhọc bạn mới kiếm được chúng.
Nếu
bạn lệ thuộc vào thông tin do người khác cung cấp, bạn sẽ rất dễ mắc
phải sai lầm. Tất nhiên, đôi khi nếu gặp may, cách này cũng mang lại ít
nhiều kết quả. Nhưng chắc chắn việc dựa vào nguồn thông tin này sẽ
không khiến bạn trở thành người đầu tư “chuyên nghiệp”, tức là sẽ trở
thành nhà đầu tư dài hạn thành công.
3. Đừng mất bình tĩnh khi cổ phiếu “rớt giá”[/b]
Trong
nguyên tắc một, chúng ta đã đề cập đến tầm quan trọng của quá trình
nhận biết khi nào thì khoản đầu tư sẽ không mang lại hiệu quả như mong
muốn. Và trong trường hợp này, bạn hãy bán nó đi càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên, bạn cần nhớ điều này chỉ áp dụng đối với những khoản đầu tư
ngắn hạn. Còn với tư cách là nhà đầu tư dài hạn, bạn không nên toát mồ
hôi khi những khoản đầu tư của bạn có lúc nào đó trở nên “chao đảo”.
Trong
mỗi hoạt động đầu tư, bạn nên chú ý đến bức tranh toàn cảnh. Bạn hãy
luôn tự tin vào chất lượng của các khoản đầu tư thay vì việc có những
lo lắng không đâu vì những lợi ích ngắn hạn.
Đồng thời, cũng đừng chỉ vì vài đồng trước mắt mà thay đổi thời gian
nắm giữ cổ phần, hoặc bán cổ phiếu ngay khi thấy giá của nó đang ở mức
có vẻ cao.
Nếu
những thương gia năng động thường xem xét giá giá cổ phiếu theo từng
ngày hay thậm chí là từng phút, thì suy nghĩ của các nhà đầu tư dài hạn
lại nắm bắt thông tin từ những chuyển động của thị trường (tức là họ
xem xét giá cổ phiếu trên cơ sở nhiều năm liền). Vì vậy, nếu muốn là
một nhà đầu tư dài hạn, bạn hãy học cách bình tĩnh với các khoản đầu tư
của mình.
4. [/b]Đừng coi trọng quá mức chỉ số P/E[/b]
Đa
số các nhà đầu tư thường coi trọng quá mức chỉ số P/E. Dù nó là một
công cụ chủ chốt trên thị trường chứng khoán, nhưng nếu chỉ sử dụng chỉ
số này để ra quyết định mua hay bán thì rất nguy hiểm và dễ dẫn đến
thua lỗ. Chỉ số P/E chỉ giúp ích cho bạn tốt nhất khi đặt nó vào trong
bức tranh toàn cảnh và kết hợp với những phương pháp phân tích khác. Do
vậy, một chỉ số P/E thấp không có nghĩa rằng mức độ an toàn của một cổ
phiếu dưới mức trung bình, hay ngược lại.
5. Cẩn thận với sức hấp dẫn của những cổ phiếu giá rẻ (penny stocks)[/b]
Thông
thường người ta hay nghĩ rằng sẽ ít bị thua lỗ hơn nếu đầu tư vào những
cổ phiếu có mức giá thấp. Nhưng dù bạn mua một cổ phiếu có giá năm đô
la thôi, trong khi giá trị thực của nó thấp hơn 1 đô la , thì thua lỗ
vẫn cứ là thua lỗ và thậm chí bạn còn mất đi 100% số tiền đầu tư của
mình. Trong thực tế, cổ phiếu giá rẻ mang tính rủi ro cao hơn cả những
cổ phiếu giá cao, do cổ phiếu giá cao được giao dịch thường xuyên hơn.
6.[/b] [/b]Đặt ra chiến lược và thực hiện theo[/b]
Những
người khác nhau sử dụng phương pháp khác nhau để lựa chọn cổ phiếu và
đạt được các mục tiêu đầu tư. Có nhiều con đường dẫn đến thành công và
không thể nói cách của ai tốt hơn.
Tuy
nhiên, khi đã tìm ra hướng đi và nguyên tắc cho mình, bạn hãy trung
thành với nó. Một nhà đầu tư cứ thay đổi liên tục chiến lược lựa chọn
cổ phiếu sẽ không thể đầu tư hiệu quả. Nếu bạn cứ đi theo một chiến
lược đầu tư vốn đã được chứng minh là hiệu quả, bạn sẽ trở thành một
nhà đầu tư luôn đi trước thị trường và tránh được thất bại mà hầu hết
những người khác sẽ gặp phải.
Đây
cũng chính là kinh nghiệm của Warren Buffett trong thời kỳ bong bóng
các công ty dot.com ở thập kỷ 90. Chiến lược đặt giá trị doanh nghiệp
lên hàng đầu của Buffett đã giúp ông tránh đầu tư vào các công ty công
nghệ mới thành lập (dù lúc đó đầu tư vào các công ty công nghệ đang là
“mốt”). Và mặc dù bị giới truyền thông chỉ trích khá nhiều, nhưng rõ
ràng chiến lược này đã được chứng minh là đúng. Buffett hầu như không
ảnh hưởng gì khi “quả bong bóng” dot.com tan vỡ.
7. Luôn nhìn về tương lai[/b]
Khó
khăn nhất trong việc ra quyết định đầu tư là bạn phải phán đoán được
những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Điều quan trọng là bạn phải học
cách phân tích những dữ liệu, biểu đồ, kết quả kinh doanh hiện tại, rồi
định hướng điều gì sẽ xảy ra, và không lung lay quyết định của mình.
Peter
Lynch đã miêu tả kinh nghiệm thành công của ông khi mua cổ phiếu của
Subaru như thế này: “Nếu tôi luôn lo lắng tự hỏi làm thế nào để cổ
phiếu mình mua có thể lên giá cao hơn, thì tôi sẽ không bao giờ mua cổ
phiếu của Subaru. Nhưng khi nhìn vào cơ sở dữ liệu của công ty này, tôi
nhận thấy cổ phiếu của nó hiện vẫn đang ở mức giá thấp hơn giá
trị thực của nó, vì vậy tôi đã quyết định mua nó. Số tiền đầu tư vào
Subaru giờ đã cho lợi nhuận gấp bảy lần”. Qua đây, bạn thấy việc đưa ra
quyết định đầu tư phải dựa trên tiềm năng lợi nhuận trong tương lai,
chứ không phải những gì diễn ra trong quá khứ.
8. Có tầm nhìn dài hạn[/b]
Chỉ
những ai mới tham gia thị trường mới chú ý nhiều đến lợi ích ngắn hạn.
Tuy nhiên, không phải nhà đầu tư nào (dù đã tham gia thị trường lâu
năm) cũng có thể có được tầm nhìn dài hạn và dễ dàng trút bỏ tâm lý
“mua vào, bán ra và kiếm nhiều tiền trong thời gian ngắn”.
Những nhà đầu tư dài
hạn thường chọn chiến lược “mua và giữ” (buy and hold), tức là thực
hiện chiến lược mua cổ phiếu và giữ chúng trong thời gian rất lâu, bất
chấp sự “chao đảo” (nếu có) của chúng trên thị trường chứng khoán.
Không
thể nói việc quan tâm đến tầm nhìn dài hạn tốt hơn là quan điểm ưu tiên
lợi nhuận ngắn hạn, hay ngược lại, song nếu bạn là người không có kinh
nghiệm, nguồn tài chính lại không dồi dào, hạn chế về khả năng phân
tích và thiếu sự đào tạo bài bản, và cũng không có niềm ham mê lắm, thì
tốt nhất bạn không nên là nhà đầu tư dài hạn. Đó cũng là lý do giải
thích tại sao hầu hết mọi người không phù hợp với ngành nghề đầu tư dài
hạn này.
9. Tạo suy nghĩ mở khi lựa chọn công ty[/b]
Các
công ty lớn thường sở hữu những cổ phiếu tốt nhưng lại không phải là
khoản đầu tư sinh lời nhiều. Có hàng ngàn các công ty nhỏ hiện tại
nhưng đầy tiềm năng sẽ trở thành những doanh nghiệp lớn trong tương
lai. Đi cùng với nó đương nhiên sẽ có rất nhiều cổ phiếu có triển vọng,
thuộc hàng blue-chip (cổ phiếu có giá).
Tất
nhiên, danh mục đầu tư của bạn không nhất thiết chỉ toàn những công ty
có số vốn nhỏ, nhưng hãy hiểu rằng: ngoài những cái tên nổi tiếng bạn
nghe thường ngày, vẫn còn những công ty ít được mọi người biết tới. Vậy
thì bạn hãy quan tâm đến chúng, vì chúng có thể sẽ cho bạn lợi nhuận
khổng lồ trong nay mai.
Tùy
theo hoàn cảnh của mình, bạn có thể áp dụng một hoặc tất cả các nguyên
tắc trên đây để tìm kiếm cơ hội thành công trong đầu tư trên thị trường
chứng khoán. Hy vọng rằng những nguyên tắc này sẽ giúp bạn có cái nhìn
sâu sắc hơn, đưa ra được các quyết định cẩn trọng hơn và sẽ trở thành
nhà đầu tư dài hạn thành công.
-
07-02-2009, 08:24 AM #13Silver member
- Ngày tham gia
- Jul 2018
- Bài viết
- 6
Bài học từ những nhà đầu tư giỏi nhấtKhi
nghiên cứu những bộ óc kiệt xuất trong lĩnh vực đầu tư, bạn sẽ nhận
thấy mỗi người trong số họ đều có ảnh hưởng to lớn đến cách thức đầu tư
trên toàn thế giới, và một nét tiêu biểu chung là họ đều nhìn thấy
trước các cơ hội. John Templeton đẩy mạnh đầu tư quốc tế trước khi xuất
hiện sự thoái trào. Warren Buffett mua hết nhẵn cổ phiếu của các công
ty chưa nổi danh trước rất lâukhi nó trở nênnổi tiếng khắp thế giới.[/i]
Rất
nhiều các nhà đầu tư hàng đầu thế giới chiếm lĩnh đỉnh cao bằng khả
năng của chính mình. Họ không đi theo dấu chân của người đi trước và
không copy phong cách đầu tư của những người khác. Ngay từ khi mới khởi
nghiệp, “Họ đã đặt mình ra ngoài đám đông,” ông Walter Gerasimowicz -
Chủ tịch và đồng thời là Giám đốc điều hành của Meditron Asset
Management nói.
Thường xuyên khó hiểu đối với thị trường
Nếu
bạn muốn tự đặt mình ra khỏi đám đông, thì trước hết bạn phải rất dũng
cảm, đặc biệt là thị trường tài chính, nơi con người hay bị chi phối
bởi tâm lý đám đông rất rõ rệt. John Merrill, Giám đốc điều hành của
Tanglewood Capital Management gọi đặc điểm này là “Sự toàn vẹn trí
tuệ”. Các nhà đầu tư hàng đầu luôn tự tư duy. “Họ không tuân theo các
câu nệ quy ước”, Merrill nói.
Có thể điều này lý giải tại sao
bất cứ một nhà đầu tư nào có tên trong danh sách những người xuất sắc
nhất cũng có nhiều câu nói nước đôi và những sở thích khác lạ. Những
người như Buffett hay ông vua tài chính Bill Gross có khả năng làm cho
hàng triệu triệu người thích thú theo dõi các quan điểm của họ.
Thỉnh
thoảng lời nói nước đôi của các đầu tư xuất sắc này khiến cho các nhà
đầu tư khác không biết phải đánh giá thế nào cho đúng. “Họ thường xuyên
lạc điệu với các trào lưu thị trường”, Merrill
nói. Các bộ óc lớn khéo léo tìm đường đi đúng cho riêng họ trên con
đường mà đám đông đang đi. Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương nhà quản lý
Ken Heebner, người đã từng mua cổ phiếu bất động sản khi nó không được
ưa chuộng và sau đó bán chúng khi giá của loại cổ phiếu này lên tới
đỉnh, chỉ ngay trước thời điểm giá bất động sản có dấu hiệu đi xuống.
Suy nghĩ cho dài hạn
Một
đặc điểm dễ nhận khác: phần lớn các nhà đầu tư đỉnh cao, mặc dù không
phải là tất cả, nhưng hầu như họ đều là những người suy nghĩ đầu tư
trong dài hạn. Họ tin tưởng chắc chắn rằng những danh mục đầu tư của họ
sẽ có giá trị trong tương lai, và họ quyết theo đuổi niềm tin ấy. “Họ
không bị dao động trước các tin tức khác nhau trên thị trường” Georges Yared, nhà hoạch định chính sách đầu tư tại Yared Investment Research nói.
Sự
tập trung trong dài hạn là rất quan trọng khi bạn đánh giá các hạng mục
đầu tư không chỉ cho vài tháng hay vài năm mà là cho vài thập kỷ.
(Chúng tôi chắc chắn các tên tuổi được liệt kê trong danh sách các nhà
đầu tư lớn trên thế giới luôn có sự theo đuổi các hạng mục đầu tư đến
vài thập kỷ). Những ngôi sao đầu tư ngắn hạn sẽ sớm đuối sức dần, và có
thể sẽ tắt ngúm chỉ ngay sau một đợt suy sụp kinh tế.
Merrill
chỉ ra rằng, trong khoảng thời gian đầu những năm 1970, danh tiếng của
các nhà quản lý quỹ đã từng bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng khi thị
trường cổ phiếu chao đảo. Rất nhiều nhà đầu tư đã mất trắng vốn đầu tư,
và họ đổ lỗi này cho các “gã găngxtơ” đang điều hành tại các quỹ quản
lý. Templeton, nhờ nhìn xa trông rộng áp dụng chiến lược tập trung
trong dài hạn và nhấn mạnh đa dạng hóa đầu tư ra nước ngoài, “đã cứu
danh dự cho các quỹ này”.
Các nhà đầu tư
hàng đầu thường chủ động đưa ra chiến lược đầu tư dài hạn có khi tới
vài thập kỷ. “ Và họ sẽ là những người sống sót qua mọi chu kỳ kinh tế,
Gerasimowicz nói. Họ đã sống sót qua các cuộc hỗn loạn kinh tế, chiến
tranh và sự đỏng đảnh của thị trường.
Thay đổi cùng với thời gian
[/b]Thực
ra, không phải tất các các nhà đầu tư thượng thặng đều kiếm ra tiền nhờ
việc mua và giữ các khoản đầu tư. Một số người, giống như nhà đầu cơ
George Soros, đã thu lợi nhuận nhờ việc buôn bán kỳ hạn. Nhưng điều đó
đòi hỏi phải là một người có đầu óc suy nghĩ độc lập. Soros phải là
người nắm rõ các quy tắc thông thường, nhưng ông cũng sẵn sàng đi ngược
lại chúng khi cần.
Vậy thì các nhà đầu
tư lớn kiên định tới mức nào? Họ có chọn ra được một triết lý đầu tư và
nhất quyết theo đuổi nó đến cùng không? Thật khó có thể trả lời được
câu hỏi này. Theo ông Gerasimowicz: “Mọi nhà đầu tư xuất chúng đã có
được thành công là vì họ hoạt động với triết lý đầu tư liền mạch”. Quan
trọng nhất là, “Họ áp dụng nó một cách kiên định đối với mọi danh mục
đầu tư của mình”, - ông nói - “Họ không bao giờ dao động”.
Điều
đó có thể đúng, nhưng chắc chắn rằng nhiều bộ óc lớn phải biết thay đổi
cùng với thời gian. Warren Buffett của năm 1964 không phải là Warren
Buffett của năm 2007, ngay cả khi một số quy tắc của ông ta vẫn như cũ.
Icahn đã điều chỉnh các sách lược của ông phù hợp với các luật lệ mới
và các quy tắc chung mới.
Tuy nhiên có một thứ không thay đổi:
đó là sự may mắn. Thậm chí người giỏi nhất trong số họ có thể đưa ra
một danh sách dài những sai lầm trong đầu tư của ông ta. Đôi khi ngay
cả nhà đầu tư xuất sắc nhất cũng ước ao có thể quay ngược đồng hồ thời
gian trở về quá khứ để sửa chữa những sai lầm ngớ ngẩn của chính mình.
Nhưng các bộ óc sáng giá nhất trong thế giới đầu tư đều biết thích
nghi, và biết rút kinh nghiệm từ các sai lầm đó để hoạch định các chiến
lược đầu tư tương lai.
Một nhà đầu tư bình thường có thể không
có được các kết quả như các nhà đầu tư lớn, nhưng bạn có thể thu được
lợi nhuận nhờ áp dụng các phương thức và các cách tiếp cận của các bộ
óc đã được “đóng dấu chất lượng cao”.
-
07-02-2009, 01:43 PM #14Silver member
- Ngày tham gia
- Oct 2017
- Bài viết
- 0
Cảm ơn bác pro
Post những bài viết rất hay
-
12-02-2009, 02:49 AM #15Silver member
- Ngày tham gia
- Jul 2018
- Bài viết
- 6
Bán cổ phiếu và những sai lầm cần tránh
Một
phần quan trọng trong bất cứ chiến lược đầu tư nào đó là xây dựng một
phương pháp hiệu quả nhất khi bán cổ phiếu. Thoạt nghe có vẻ dễ dàng
nhưng trên thực tế nhiều nhà đầu tư đã mắc phải các sai lầm khiến không
ít lợi nhuận của họ tan biến thành mây khói.Bán
cổ phiếu là một bước đi bắt buộc trong quy trình đầu tư để thu lợi
nhuận. Thật đáng tiếc, chúng ta không phải là những chiếc máy tính và
khả năng tư duy phân tích của chúng ta có thể làm cho kết quả bán cổ
phiếu tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn mức trung bình.
Sẽ
có không ít lần bạn bán cổ phiếu quá sớm hay bán quá muộn vì chờ giá
lên. Điều này cũng là bình thường khi các quyết định của bạn dựa trên
kinh nghiệm hay cảm tính. Thậm chí không ít trường hợp mọi thứ sẽ tồi
tệ hơn rất nhiều nếu các quyết định bán cổ phiếu bị nỗi sợ hãi của bạn
ảnh hưởng.
Trên
thực tế, rất nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu dựa nhiều trên yếu tố cảm
xúc và do vậy đã mắc các sai lầm đáng tiếc. Hãy phân tích các sai lầm
khi bán cổ phiếu dưới đây và chắc chắn bạn sẽ rút ra được nhiều bài học
bổ ích:
1. Tiếp tục găm giữ những cổ phiếu bắt đầu thua lỗ
Về
mặt tâm lý, sẽ rất khó cho các nhà đầu tư để bán cổ phiếu của mình khi
giá bắt đầu giảm xuống. Lúc này, họ thường mong muốn chờ đợi cho đến
khi giá cổ phiếu ít nhất quay trở lại với giá mua ban đầu để thu hồi
vốn. Các nhà đầu tư vẫn cứ khăng khăng mình đúng và không chịu bán để
giảm lỗ bởi trong suy nghĩ của họ một khi chưa bán thì chưa lỗ.
Tuy
nhiên, điều đó có thể không bao giờ xảy ra hay phải mất một thời gian
dài mới đạt được mục tiêu này. Rõ ràng, nạn không nên nắm giữ cổ phiếu
trong một thời gian dài nếu chúng đang trên đà giảm giá. Nếu bạn bỏ lỡ
mất mức giá tối đa, cổ phiếu sẽ chẳng mấy chốc rớt giá và bạn sẽ thua
lỗ nhiều.
Nếu
bạn cảm thấy rất chắc chắn về một cổ phiếu, bạn có thể giữ nó lâu hơn.
Nhưng chúng ta không biết được bạn chắc chắn đến mức nào. Một điều chắc
chắn duy nhất trên thị trường chính là sự bất ổn định.
Do
vậy, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào khoản đầu tư và quan tâm tới việc bán
cổ phiếu nếu bạn có thể tái đầu tư khoản tiền này cho những cổ phiếu
khác tốt hơn.
2.Tiếp tục găm giữ cổ phiếu để thu về nhiều lợi nhuận hơn
Khi
một cổ phiếu đột ngột tăng giá, bạn có thể lưỡng lự với việc bán nó,
thậm chí cả khi bạn cảm thấy mức giá đã tăng quá cao và quá nhanh.
Sẽ
luôn có khả năng rằng bạn bán cổ phiếu và sau đó giá tiếp tục tăng cao.
Nhưng cũng không ít trường hợp đây là việc làm tốt nhất để bảo vệ các
khoản lợi nhuận của bạn.
3. Không đặt ra các mục tiêu giá cả
Một
cách để loại bỏ yếu tố cảm xúc ra khỏi thời điểm bán cổ phiếu đó là đặt
ra các mục tiêu giá cao và giá thấp cho việc tái định giá khoản đầu tư.
Bạn
không nhất thiết phải bán cổ phiếu khi giá tăng lên đến mục tiêu trên,
nhưng ít nhất bạn nên xem xét lại cẩn thận khi đó. Việc tuân theo các
quy tắc cố định cho việc bán cổ phiếu khi giá giảm xuống đến một tỷ lệ
nhất định có thể giúp bạn ngăn ngừa những khoản thua lỗ đáng kể.
4.Cố gắng dự báo xu hướng thị trường
Rất
khó để dự đoán chính xác khi nào thị trường đi lên và khi nào thị
trường đi xuống, cũng như khi nào lên đến đỉnh và khi nào xuống đến
đáy.
Thậm
chí cả khi thị trường chứng khoán đi theo đúng những chiều hướng chung,
cũng sẽ có những ngày lên cao và những ngày xuống thấp. Việc nỗ lực bán
và mua cổ phiếu dựa trên những dự đoán về sự thay đổi từng ngày là vô
cùng khó khăn.
5.Lo lắng quá nhiều về các khoản thuế
Thuế
có thể lấy đi một lượng tiền đáng kể trong các khoản lợi nhuận của bạn.
Thậm chí nếu các khoản đầu tư của bạn là dài hạn, thông thường các quy
định về thuế thường ở mức 15% lợi nhuận thu về.
Tuy
nhiên, việc tránh các khoản thuế có thể không phải là lý do tốt để tiếp
tục giữ cổ phiếu trong danh mục đầu tư. Có nhiều chiến lược đầu tư phổ
biến có thể được sử dụng để tránh các gánh nặng về thuế, nhưng thực tế
không có nhiều việc bạn có thể làm nhằm loại bỏ hoàn toàn mức thuế phải
chịu.
Do vậy, nếu đã đến thời điểm bán cổ phiếu, bạn nên quyết tâm thực hiện và đừng quá lo lắng về các khoản thuế.
6.Không quan tâm nhiều tới các khoản đầu tư của bạn
Danh
mục đầu tư chứng khoán của bạn cần được đánh giá định kỳ theo những yếu
tố cơ bản nhằm đảm bảo rằng bạn không bỏ lỡ mất các dấu hiệu cho thấy
đã đến lúc để bán cổ phiếu. Một trong những lý do hợp lý để bán cổ
phiếu đó là khi xuất hiện những thông tin xấu về công ty phát hành.
Bạn
nên đánh giá lại khoản đầu tư của mình khi công ty thay đổi ban quản
lý, khi công ty tuyên bố sẽ sáp nhập hay mua lại một công ty khác, khi
các đối thủ cạnh tranh mạnh gia nhập thị trường và khi một vài nhà quản
trị cấp cao bán ra một số lượng lớn cổ phiếu.
Tóm
lại, dễ dàng thấy được những sai sót trên thị trường chứng khoán luôn
xảy ra mặc dù không phải khi nào cũng là những sai lầm ngớ ngẩn. Điều
quan trọng đối với một nhà đầu tư giỏi đó là phải biết loại bỏ yếu tâm
lý cùng cái tôi cá nhân ra khỏi quá trình mua bán cổ phiếu, phải định
trước mức giá bán để cứ thế mà thực hiện chứ không để tình cảm xen vào
làm hỏng mọi việc.
-
12-02-2009, 02:53 AM #16imported_danhdang05 Guest
Sự hấp dẫn của những cổ phiếu an toàn và rẻNếu ước mơ “trở thành tỷ phú sau một đêm”, thì thị trường chứng khoán luôn là nơi thôi thúc sự mạo hiểm của các nhà đầu tư. Nhưng đôi khi, chính điều này đã làm cho họ trắng tay vào “buổi sáng hôm sau khi
thức giấc”. Để tránh sai lầm trongđầu tư chứng khoán,thì một trong
những phương pháp được đánh giá cao trong giai đoạn hiện nay là đầu tư
an toàn và cẩn trọng.
Hoạt động của các quỹ đầu tư quốc tế luôn dẫn đến những hoạt động đầu tư đại chúng của hàng nghìn các nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới. Kế từ khi thành lập vào năm 2001, Amit B. Wadhwaney, người quản lỹ quỹ Third Avenue International Value (TAIVF) đã dành thời gian nhiều năm liền để quan sát các công ty trước khi ra những quyết định đầu tư. TAIVF đã tăng trưởng tới trên 1 tỷ USD từ số vốn góp ban đầu là 140 triệu USD.
Trong những tháng đầu năm 2005, một lượng vốn lớn đã được rót vào quỹ từ rất nhiều nhà đầu tư trên toàn thế giới. Tại sao vậy? Câu trả lời là họ tin tưởng vào khả năng quản lý quỹ của Amit B. Wadhwaney. Ông cam kết rằng sẽ giúp số tiền này tăng gấp bội.
Amit
B. Wadhwaney không để tâm nhiều đến các con số lợi nhuận được các công
ty công bố định kỳ hàng quý hay hàng năm. Một trong những nguyên tắc
của ông là không cố gắng cân nhắc hay thậm chí tính toán các con số này với mục đích làm tiền đề cho các quyết định đầu tư của mình. Hơn thế nữa, Amit B. Wadhwaney cũng không bao giờ lưu ý đến
các dự đoán kinh tế vĩ mô, không sử dụng các manh mối hay thông tin nội
bộ của các công ty niêm yết. “Tôi không quan tâm đến những vấn đề này”,
- Amit B. Wadhwaney phát biểu như vậy trong một cuộc nói chuyện mới đây
tại văn phòng của ông ở Manhattan.
Trong các kế hoạch đầu tư
của mình, Amit B. Wadhwaney luôn thích thú với việc “phớt lờ” những
tính toán chuẩn mực tại phố Wall và điều đáng chú ý là những nguyên tắc
của Wadhwayney đã mang lại nhiều kết quả khả quan trong hoạt động kinh
doanh của TAIVF. Quỹ TAIVF đã tăng trưởng 26,7% trong năm 2004 dưới sự
quản lý và điều hành của Amit B. Wadhwaney . “Chúng tôi kiếm tiền dựa
trên những nguyên tắc rẻ và chắc chắc”, Amit B. Wadhwaney cho biết,
“Mặc dù vậy, các khoản lợi nhuận vẫn ngày càng một lớn hơn”.
Đúng như lời ông khẳng định, lợi nhuận của TAIVF luôn đạt hai con số phần lớn là nhờ những phương thức quản lý của người điều hành . Ông luôn quan sát các công ty một cách cầu kỳ trong khoảng thời gian 2 đến 3 năm trước khi mua. Amit B. Wadhwaney không bao giờ mua
cổ phiếu trừ khi ông bị thuyết phục về sự ổn định dài hạn của nó. Một
trong những sở thích của Amit B. Wadhwaney là giữ cổ phiếu trong thời
gian ít nhất từ hai đến năm năm và chỉ đến khi Amit B. Wadhwaney tin
rằng giá trị của cổ phiếu đạt lên đến đỉnh điểm, thì ông mới quyết định bán”.
Wadhawaney tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc đầu tư của mình”, William S. Rocco, một nhà phân tích cấp cao của Morningstar, cho biết, “nếu không có những dấu hiệu ổn định, thì TAIVF sẽ không bao giờ đầu tư”.
Việc
Amit B. Wadhwaney luôn coi trọng việc giữ các cổ phiếu trong thời gian
tương đối dài đồng nghĩa với việc vòng quay doanh thu của quỹ thấp, chỉ khoảng 10% một năm, trong khi con số này ở các quỹ
khác là khoảng 100%. Ngoài ra, điều này cũng có nghĩa là các khoản phí
sẽ ở dưới mức trung bình: tỷ lệ chi phí hàng năm của TAIVF chỉ chiếm
khoảng 1,45% giá trị quỹ, còn đối với các quỹ khác, con số này là 1,85%, - theo Standard & Poors.
Quỹ TAIVF cũng giữ một lượng cổ phiếu ít hơn so với số lượng cổ phiếu trung bình của các quỹ khác. Thông thường chỉ bằng khoảng một nửa so với số lượng trung bình của các quỹ tương tự TAIVF.
“Những tính cách trong đầu tư của Amit B. Wadhwaney đồng nghĩa với việc những nhà đầu tư nào thích những cổ phiếu có tín nhiệm cao, sẽ không thích quỹ của ông”, Rosanne Pane, giám đốc và nhà chiến lược quỹ đầu tư tại S&P, - nói - "Amit B. Wadhwaney luôn có những tiếp cận không như thông lệ và những nhà đầu tư vào quỹ của ông cần phải hiểu
rõ điều đó. Tại TAIVF, bạn sẽ thấy những cổ phiếu chưa từng bao giờ
nghe thấy và bạn cũng sẽ không thể có trong tay những cái tên nổi tiếng
như Sony. Thay vì đó, các nhà đầu tư sẽ chạm trán với những cổ phiếu từ
các khu vực như Nauy và New Zealand, hai quốc gia theo tính toán có số
lượng cổ phiếu chiếm đến gần 1/3 giá trị của TAIVF vào cuối tháng 1 năm
nay. Cổ phiếu nhiều nhất tại TAIVF là của hãng Toll NZ, một công ty vận tải lớn
của New Zealand và cổ phiếu của hãng Aker Kvaerner ASA, một công ty
dịch vụ dầu khí của Nauy. Tuy nhiên, lợi nhuận mà bạn bỏ ra vẫn tương
đương khi bạn sở hữu những cổ phiếu danh tiếng khác”.
Amit B. Wadhwaney ủng hộ nguyên tắc đầu tư an toàn và rẻ. Đối với ông, sự an toàn có nghĩa là công ty phải hội tụ ba điều kiện sau: người
chủ thông minh; hoạt động kinh doanh ổn định; và có tình hình tài chính
vững chắc. Còn rẻ có nghĩa là cổ phiếu đó đang được giao dịch không quá
50% giá trị thực của nó theo ước lượng của ông.
Amit B. Wadhwaney đã đọc cuốn "The Aggressive Conservative Investor" (tạm dịch: “Nhà đầu tư năng nổ bảo thủ”) ba lần trước khi nhận quản lý quỹ trong những năm 90 của thế kỷ trước. Theo
Amit B. Wadhwaney, những cuốn sách như vậy đã tạo ra một định hướng đầu
tư đúng đắn bởi nó đào sâu vào sự phân tích tính ổn định tài chính của
các công ty niêm yết trước khi ra những quyết định đầu tư.
Từ
những kinh nghiệm của các nhà đầu tư “tiền bối”, Amit B. Wadhwaney đã
học cách để tìm ra các công ty “khỏe mạnh” với giá hợp lý. “Phần lớn cổ
phiếu của những công ty chúng tôi mua đều đã và đang trải qua những khó
khăn nhất định. Nhưng điều quan trọng là bên cạnh đó, thì tình hình tài
chính và những kế hoạch dài hạn của công ty luôn vững chắc”, - Amit B.
Wadhwaney cho biết. Theo ông, thì trong đầu tư chứng khoán nên tránh
đầu tư vào những công ty mà có “bảng cân đối kế toán nghèo nàn, một
phương thức kinh doanh riêng biệt, hoạt động quản lý thiếu trung thực
và năng lực cạnh tranh kém trên thị trường”.
Việc đầu tư của
TAIVF vào cổ phiếu của Toll NZ đã cho thấy quá trình Amit B. Wadhwaney
tìm kiếm các cổ phiếu như thế nào. Ông chú ý đến công ty này vào đầu
những năm 90 của thế kỷ XX. Khi đó, Toll NZ còn là một công ty thuộc sở
hữu của nhà nước. Toll NZ hoạt động trên lĩnh vực chuyên chở khách hàng
và hàng hoá bằng đường sắt, dịch vụ bến phà và các hoạt động xe tải. “Hoạt
động của Toll NZ khi đó gần như là độc quyền hoàn toàn”, Wadhwaney cho
biết, “nhưng công ty vẫn chưa phát hành cổ phiếu cho các cổ đông”.
Vào
năm 2002, Toll NZ phát hành cổ phiếu,nhằm tăng vốn lưu động và cắt giảm
các chi phí của hãng. Cổ phiếu được giao dịch ước chừng 72 cent/cổ
phiếu và Amit B. Wadhwaney ước tính kế hoạch này sẽ tốn khoảng một phần
ba giá trị của TAIVF, thời điểm này quỹ của ông mới đi vào hoạt động. Và ông vẫn chưa quyết định đầu tư.
Sau
đó,, mùa hè năm 2003, cùng với những đợt nắng nóng khủng khiếp, hãng
Toll NZ, gặp nhiều khó khăn lớn đến nỗi ban lãnh đạo hãng hết sức lo
sợ, nhưng đây lại là thời điểm Amit B. Wadhwaney nhìn thấy cơ hội của mình.
“Vì thời tiết rất nóng nên các con bò của Austrailia sản xuất được ít
sữa hơn, ngành nông nghiệp gặp khó khăn”, Amit B. Wadhwaney giải thích,
“Kinh doanh vận chuyển đường biển chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động của hãng và khi sản xuất nông nghiệp ít đi cũng đồng nghĩa với
kinh doanh sa sút, công nhân đình công nhiều hơn”.
Vào thời
điểm tồi tệ nhất, giá cổ phiếu của Toll NZ giảm còn 22 cent/cổ phiếu.
Và lúc này, Amit Wadhwaney quyết định mua một số lượng lớn cổ phiếu
Toll NZ. "Mọi thứ đều rất công bằng, mùa hè rồi sẽ chuyển sang mùa đông
và các cuộc đình công sẽ chấm dứt. Nhưng điều quan trọng là cũng với số
vốn đầu tư chiếm 1/3 giá trị của TAIVF, nhưng trong hai thời điểm khác
nhau, chúng tôi đã mua được một số lượng cổ phiếu lớn hơn rất nhiều”,
Amit B. Wadhwaney nói.
Mọi thứ đúng như dự đoán của Amit Wadhwaney, doanh thu của Toll NZ vào mùa đông tăng mạnh trở lại. Cùng với điều này là cổ phiếu của Toll NZ tăng lên 2,2 USD/cổ phiếu, gấp hàng chục lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Có
lẽ, lúc này người mừng nhất là Amit B. Wadhwaney, bởi chính khoản lợi
nhuận kếch sù đã chứng minh nguyên tắc đầu tư của ông, “cưỡi trên lưng
những cổ phiếu xuống dốc trước khi chứng kiến nó hồi sinh mạnh mẽ. Amit
B. Wadhwaney không bao giờ nghi nhờ về chiến lược đầu tư của mình “Tôi
đặc biệt kiên định với những quyết định mua cổ phiếu an toàn và rẻ”.
-
13-02-2009, 04:20 AM #17Silver member
- Ngày tham gia
- Nov 2018
- Bài viết
- 0
Lợi ích từ thua lỗ.
Cách
đây chưa lâu, người ta thường tìm cách rũ bỏ những doanh nghiệp thua
lỗ, không hiếm khi còn trả thêm tiền cho người mua lại doanh nghiệp –
chỉ để sao cho nó khỏi bị phá sản. Còn hiện hay, đây chính chính là một
tài sản hữu ích. Nhờ có nó mà doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thuế
lợi tức tới 1/3.
Vì sao những công ty phát đạt lại cần những khoản lỗ trong hạch
toán, về nguyên tắc, không có gì là bí mật. Bất cứ nhân viên tập sự nào
trong lĩnh vực tài chính cũng đều biết rõ khái niệm: “Lá bùa thuế” (tax
shield), hay còn gọi là “tài sản thuế” (theo như cách gọi của những
chuyên viên kiểm toán). Về bản chất, “là bùa” chính là bất cứ khoản chi
hay ưu đãi nào có thể làm giảm đi tiền lãi thuộc diện bị đánh thuế, còn
có nghĩa là giảm đi khoản thuế lợi tức mà doanh nghiệp phải trả. Giá
trị ban đầu của “lá bùa thuế” chính bằng khoản tiết kiệm thuế. Còn trên
thực tế, giá của là bùa còn tính đến yếu tố khấu hao.
Một trong những lá bùa hay được sử dụng trong thực tiễn tài chính
thế giới là quyền chuyển những khoản lỗ (doanh nghiệp có khoản lỗ từ
năm trước được phép khấu trừ vào phần lãi chịu thuế của năm hiện tại).
Ở Nga đã từng có những quy định tương tự, nhưng đã bị bỏ đi trong luật
thế lợi tức từ năm ngoái. Nó đã được sử dụng rất thuận tiện, ví dụ như
trong việc tổng hợp các dòng tiền trong doanh nghiệp: thu nhập của một
Holding đổ dồn vào một công ty thua lỗ cũng thuộc tập đoàn đó, và như
vậy, làm giảm được mức lợi nhuận cũng như thuế lợi tức mà cả tập đoàn
phải trả.
Để đạt được những mục đích trên, có thể mua lại những “vỏ bọc lỗ”
của người khác. Tuy nhiên, chuyển hoạt động kinh doanh từ một công ty
này sang một công ty khác không phải lúc nào cũng dể dàng, hơn nữa cũng
có khi không thể thực hiện được, đặc biệt, nếu như việc kinh doanh liên
quan đến bất động sản và những tài sản có giá trị hay liên quan giấy
phép hoạt động. Nhiều khi, việc “trao đổi” các dòng tiền lại “lẹm”
nhiều vào phần tiết kiệm được. Cũng vì lẽ đó mà “nhu cầu” đối với các
doanh nghiệp thua lỗ hầu như không có.
Những khả năng mới.
Tất cả đã thay đổi trong năm trước. Hiện nay, để thay thế cho việc
chuyển đổi kinh doanh một cách phức tạp vào “vỏ bọc lỗ”, có thể sử dụng
thủ tục đơn giản hơn nhiều là: tái hợp doanh nghiệp, có nghĩa là sát
nhập “vỏ bọc lỗ” vào một tập đoàn nhiều lợi nhuận.
Kết quả thu được cũng sẽ tương tự - mua lại những khoản lỗ có thể
khấu trừ. Một nhà sản xuất bia của Nga mua lại một nhà máy luyện kim cũ
ở đâu đó vùng Uran. Nếu cho rằng, người làm bia bằng cách đó muốn phát
triển kinh doanh cho mình thì hơi ngộ nghĩnh. Việc chuyển đổi hoạt động
không hề được nói đến. Hợp đồng sát nhập (M&A)
này chỉ có mục đích liên quan đến khoản lỗ 200 triệu USD do nhà máy có
nhiều vấn đề liên quan đến bán hàng và sử dụng thiết bị máy móc cũ.
Khoản tiền lỗ này, theo những số liệu không chính thức, “đủ dùng” cho
người làm bia trong nhiều năm. Về lý thuyết, phương án sử dụng lá bùa
thuế này đã được sử dụng cho đến trước năm ngoái. Nhưng đó chỉ là lý
thuyết. Trong các điều luật, những điều này không hề được nhắc trực
tiếp đến, và mức độ mạo hiểm cho kết quả tài chính của việc làm tương
tự là rất lớn.
Từ năm 2002, cùng với việc thi hành chương 25 Bộ luật thuế (điều
283, khoản 5), luật pháp quy định trực tiếp đến việc cho phép khấu trừ
đi những thua lỗ của cả hai doanh nghiệp trước khi tái hợp vào khoản
tiền lãi chịu thuế trong năm hiện tại.
Tuy nhiên, đồng thời cũng có một loạt các quy định hạn chế. Ví
dụ, khoản lỗ không thể làm giảm lãi chịu thuế đi quá 30% cho một năm
(trước đây có thể khấu trừ đi tới 50%, nhưng bằng cách tổng hợp tất cả
các ưu đãi, bao gồm cả khoản đầu tư rất lớn). Tuy nhiên, khả năng giảm
thuế suất lợi tức tới 1/3 (từ 24% xuống còn 16,8%) rất hấp dẫn. Thêm
vào đó, phụ thuộc vào tổng số lợi nhuận và thua lỗ, điều này có thể làm
trong vòng 10 năm (trước đây là 5 năm).
Rất thú vị khi thấy rằng, “sơ đồ lỗ” có thể thực hiện cho tất cả
các bên. Không chỉ những doanh nghiệp có lợi nhuận chú ý tới việc mua
những “vỏ bọc lỗ” để làm giảm thuế, mà những doanh nghiệp thua lỗ cũng
có thể mua những doanh nghiệp phát đạt – để thâm nhập vào lĩnh vực kinh
doanh phát đạt với ưu thế cạnh tranh là ‘lá bùa thuế” của chính mình.
Như vậy, bây giờ có thể kiếm tiền từ chính những khoản thua lỗ của
mình một cách an toàn và hoàn toàn hợp pháp. Theo như lời đại diện của
Tổng cục thuế LB Nga: “Nếu như luật pháp đã quy định rằng, doanh nghiệp
sau khi tái hợp có quyền khấu trừ những khoản lỗ có trước khi sát nhập
thì chúng tôi không có gì để phản đối. Bộ luật thuế, đó là những quy
định trực tiếp, còn chúng tôi thực hiện. Tất nhiên, tổng số thua lỗ do
doanh nghiệp đưa ra sẽ được nghiên cứu cặn kẽ. Cụ thể là, sẽ kiểm tra
sát sao việc thực hiện những hạn chế và quy định về việc chuyển lỗ,
trong đó có quy định về việc lưu trữ giấy tờ trong vòng 10 năm, ngay cả
trong trường hợp nếu như doanh nghiệp đã bị xóa tên trong danh sách của
phòng thuế.
Bây giờ chỉ còn lại việc tìm người mua sao cho thích hợp. Hiện tại
thì các bên vẫn phải tự đi tìm. Thế nhưng có lẽ đó chỉ là những khó
khăn tạm thời. Những tay thạo việc đã bắt đầu hấp hé mở ra những trung
tâm môi giới mua bán các doanh nghiệp thua lỗ.
Tuy nhiên, các chuyên viên trong ngành thuế sẽ không chịu ngồi
im.Trong kho tàng của cơ quan thuế ở các nước với hệ thống thuế phát
triển có sẵn những phương tiện đấu tranh với những kẻ chuyên đi săn tìm
“lá bùa thuế”. Ví dụ như cơ quan thuế vụ của Mỹ (Internal Revenue
Service), dựa vào nguyên tắc lợi coi trọng bản chất hơn hình thức
(substance over form principle), có thể bác bỏ việc khấu trừ lỗ vào
khoản thuế phải trả nếu như doanh nghiệp không chứng minh được rằng,
việc sát nhập được thực hiện với các mục đích kinh doanh hợp lý, chứ
không phải là vì để nhận được những lợi ích về thuế.
Các cơ quan thuế vụ ở Nga tạm thời không theo dõi những mục đích
của việc sát nhập. Một mặt, họ không có quyền làm như vậy – về hình
thức, việc làm những người trả thuế khi thực hiện việc tái hợp doanh
nghiệp theo “sơ đồ lỗ” là hoàn toàn hợp pháp. Hơn nữa, theo dõi mục
đích của việc sát nhập và xử phạt là những việc làm mà pháp luật hiện
hành không cho phép.
Evgenhi Timofeev, chuyên viên các vấn đề về thuế của văn phòng
Ernst&Young Moscow cho rằng “Khi chưa có những quy định thuế để
đánh giá tính hiện thực của hợp đồng này hay hợp đồng khác của các
doanh nghiệp, các cơ quan thuế vụ đôi khi sử dụng đến nhưng quy định
của luật dân sự”
Tuy nhiên, về mặt đối trọng thì những quy định về mặt luật pháp lại
không phù hợp. “Bằng chứng là phán xét của trọng tài kinh tế Liên bang
vùng Tây Bắc liên quan đến việc INCOMBANK kiện Cơ sở kỹ thuật của đội
tàu vùng Arkhangensk và SERGEOSINTES ngày 25 tháng 12 năm 2002 – tòa
chỉ ra rằng, việc ‘chứng minh ý định của các bên không phải là để thực
hiện hợp đồng mà là để nhận các ưu đãi về thuế’ không phải là cơ sở để
cho rằng hợp đồng là không hợp pháp”.
Mặt khác, người làm thuế hiện thời chưa đi vào những chi tiết như
vậy – họ còn phải giải quyết những vấn đề có thể thực hiện được và đơn
giản (như là tiến hành thanh tra thuế) hơn là đào bới vào cấu trúc và
thực tế những khoản lỗ của các doanh nghiệp khi sát nhập.
Constantin Mosiakin, trưởng phòng quản lý công tác của Cục thanh
tra thuế Liên bang Nga cho biết: “Đến bây giờ, trên thực tế thì chúng
tôi còn chưa động chạm đến sơ đồ tối ưu thuế bằng cách sát nhập các
doanh nghiệp thua lỗ. Để thực hiện việc giảm mức thuế, có thể vận dụng
theo quy định của chương 25 Bộ luật thuế. Nhưng bởi vì không có sự vi
phạm pháp luật, vì vậy vấn để này không phải là của chúng tôi mà là của
các đồng nghiệp ở Tổng cục thuế. Tuy nhiên, nếu tính đến yếu tố rằng,
Bộ luật vừa có hiệu lực và Tổng cục thuế còn liên tục góp ý, những nhận
xét chỉ có thể được đưa ra theo kết quả cuối năm, khi hình thành lãi
năm. Tuy nhiên, bây giờ tôi có thể nói rằng, chúng tôi cũng như cơ quan
bảo vệ pháp luật, trong tình hình này rất lưu ý sự thua lỗ thực tế. Để
hiểu được động lực của việc “găm” những khoản nợ vào mình, cần tiến
hành phân tích cấu trúc của các khoản lỗ và tài sản của doanh nghiệp bị
mua. Nếu như việc thua lỗ bị “thổi phồng” thì đó là trốn thuế. Và như
vậy sẽ có những hậu quả tất yếu của nó”.
Tuy nhiên, trước khi các cơ quan thuế vụ tiến hành kiểm tra thì những bên liên quan đến hợp đồng M&A đã tự mình kiểm tra rất kỹ.
Giá trị thua lỗ.
Những doanh nghiệp được đem ra bán trước đây đã từng hoạt động một
thời gian, vì vậy người mua thường muốn phải kiểm tra lại tính trong
sáng của doanh nghiệp này. Vì sao vậy? Ít ra là để không phải nhận
những “món quà” trong tương lai, như là: sự đòi hòi bất ngờ của các chủ
nợ, trong số đó, đôi khi lại là nhà nước. Thông thường, chính những
người bán cũng chú ý đến việc kiểm tra như vậy: mức mạo hiểm của hàng
hóa cao bao nhiêu thì giá trị của nó thấp bấy nhiêu. Trong thực tiễn
quốc tế thì trước khi thực hiện mua bán doanh nghiệp, cần tiến hành thủ
tục kiểm tra đặc biệt với sự trợ giúp của các công ty luật hoặc kiểm
toán (due diligence).
Nhưng tốt nhất đối với người bán là trước khi đem bán, ngoài due
diligence nên thực hiện việc thanh tra thuế để chứng minh rằng, mọi
việc đã được thanh toán xong với “thế giới bên ngoài” và cả với nhà
nước. Đánh tiếng cho việc này không khó – cơ quan thuế vụ rất “hào
hứng” kiểm tra doanh nghiệp trước khi đem bán, bởi vì xử phạt những
người chủ mới vì những lỗi lầm cũ của doanh nghiệp là điều không thể.
Khi chưa tìm được người mua, người bán cần bảo quản hàng hóa của
mình cho tốt, cụ thể là trả báo cáo tài chính không có nợ nần và tạo
điều kiện cho cơ quan thuế vụ tiếp xúc với doanh nghiệp. Nếu không,
“linh hồn chết” sẽ bị bắt buộc giải thể do liên tục vi phạm luật (điều
61 Bộ luật dân sự) hoặc vì không có “con nợ” (điều 177 Luật phá sản
doanh nghiệp). Và tất nhiên để không đánh mất “giá trị thua lỗ”, chủ
doanh nghiệp cần phải đăng ký lại ở phòng thuế (điều 26 luật “Về việc
đăng ký các pháp nhân”) trước ngày 01.01.2003.
Như vậy, không nên vội vã vứt bỏ những công ty cũ với thua lỗ
không ai cần tới. Và việc kinh doanh lụi bại bây giờ có thể bán lại rất
hời.
-
15-02-2009, 08:03 AM #18Silver member
- Ngày tham gia
- Nov 2018
- Bài viết
- 0
-
31-03-2009, 11:14 AM #19Guest
Mối quan hệ giữa chứng khoán và lãi suất
Lãi suất
Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng
- giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới
hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Lãi suất có tác
động mạnh nhất đến các nhà đầu tư tài chính cũng như thị trường tài
chính là lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương. Lãi suất chiết
khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng
trung ương (Ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân
hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này.
Tác động của lãi suất chiết khấu
Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền
gửi (dự trữ của ngân hàng) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có
một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài
quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ
thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương mại và dự trữ của
ngân hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy
định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm
xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có
tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được
từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng
có nhu cầu tiền mặt cao bất thường:[*] Nếu lãi suất chiết khấu bằng lãi suất thị trường thì ngân hàng
thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến
mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng
trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào.[*] Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng
thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức
tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải
vay tiền từ ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị
trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.[/list]
Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất
chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, ngân hàng trung ương có thể
buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số
nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm)
để làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm
xuống thì các ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và
do vậy số nhân tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng lượng cung tiền.
Thông qua lãi suất chiết khấu ngân hàng trung ương có thể kiểm soát
được lạm phát. Đây cũng là cách phổ biến mà ngân hàng trung ương các
nước sử dụng.
Nói một cách đơn giản, bằng cách tăng lãi suất chiết khấu, ngân hàng
trung ương làm giảm lượng cung tiền trong nền kinh tế bằng việc làm cho
chi phí vay trở nên đắt hơn.
Hiệu ứng của việc tăng lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu tăng khiến cho việc vay tiền của ngân hàng
thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Tuy nhiên, sự gia
tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó còn tạo nên tác
động lan truyền ảnh hưởng đến hầu hết các cá nhân và doanh nghiệp.
Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu:
các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay đối với khách hàng. Khách hàng
cá nhân bị ảnh hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng
và các khoản vay ngắn hạn khác. Điều này tác động lên các cá nhân người
tiêu dùng, họ sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu. Sau cùng, mỗi tháng mọi
người đêù phải trả tiền cho các hoá đơn và khi các hoá đơn này trở nên
đắt hơn thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi gia đình sẽ trở nên ít
hơn. Điều này có nghĩa là mọi người sẽ giảm tiêu cho các dịch vụ và
hàng hóa cao cấp, và điều này sẽ tác động đến doanh thu và lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Thông qua việc thay đổi hành vi của người tiêu dùng, tăng lãi suất
chiết khấu sẽ tác động gián tiếp lên doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh
nghiệp cũng chịu sự tác động trực tiếp từ lãi suất chiết khấu. Doanh
nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động
và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt
hơn thì các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc vay tiền từ ngân hàng. Doanh
nghiệp chi tiêu ít hơn sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút.
Ảnh hưởng đến giá chứng khoán
Một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất
cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy
giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có
giá trị một cổ phần. Gíá chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác
nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà
đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau. Một khi
doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư
hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ
tăng cao hoặc là doanh thu sụt giảm do người tiêu dùng cắt giảm chi
tiêu thì dòng tiền tương được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ
phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên
TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị
trường chứng khoán sẽ giảm.
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán
sụt giảm là điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá
trị khoản đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi
vốn, cổ tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong
tương lai thấp hơn và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp không
tốt như mong đợi, chắc chắn không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục
đánh giá cao doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các
cổ phần. Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so
với việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Do vậy khi giá chứng khoán sụt
giảm, các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán
để đầu tư vào các tài sản khác như trái phiếu, vàng, bất động sản…
Ta xem xét về việc điều chỉnh lãi suất của FED. Lãi suất mà FED điều
chỉnh là lãi suất qua đêm (FED Fund Rate). Đây là lãi suất các ngân
hàng tính cho nhau khi vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Quyết định nâng, giảm lãi suất chính ra là do Ủy ban Thị trường Mở Liên
bang (FEDeral Open Market Committee) đưa ra. Lãi suất này sẽ tác động
lên lãi suất chiết khấu.
Các biểu đồ sau cho thấy việc điểu chỉnh lãi suất của FED tác động đến S&P500.
Giai đoạn từ 13/7/1990 đến 4/9/1992: Lãi suất giảm từ 8% xuống 3% (bao gồm cả giai đoạn suy thoái 1990 - 1991)
<a href="http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9092.jpg" alt="9092.jpg" class="highslide" onclick="return hs.expand(this)"></a>
Giai đoạn từ 1/2/1995 đến 17/11/1998: Lãi suất giảm từ 6% xuống 4.75%
<a href="http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9598.jpg" alt="1995-1998" class="highslide" onclick="return hs.expand(this)"></a>
Giai đoạn từ 16/5/2000 đến 25/6/2003: Lãi suất giảm từ 6.50% xuống 1.00% (bao gồm cả đợt suy thoái năm 2001)
<a href="http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0003.jpg" alt="2000-2003" class="highslide" onclick="return hs.expand(this)"></a>
Giai đoạn từ 29/6/2006 đến 30/1/2008 Lãi suất giảm từ 5.25% xuống 3%
Thông qua 4 giai đoạn ta có thể thấy, việc điểu chỉnh giảm lãi suất
cho vay qua đêm của FED không phải lúc nào cũng mang lại hiệu ứng tăng
giá chứng khoán, tiêu biểu là giai đoạn từ giữa năm 2000 đến giữa năm
2003.
<a href="http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0608.jpg" alt="2006-2008" class="highslide" onclick="return hs.expand(this)"></a>
Ta tiếp tục xem xét việc tăng lãi suất chiết khấu ở Việt Nam trong năm 2005
<a href="http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/vn.jpg" alt="vn.jpg" class="highslide" onclick="return hs.expand(this)"></a>
Lãi suất chiết khấu đã lần lượt tăng từ 3% lên đến 4.5%, nhưng
VNIndex luôn liên tục tăng trong suốt năm 2005. Từ đó ta có thể nhận
định, lãi suất và giá chứng khoán không thực sự có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau.
Lãi suất ảnh hưởng nhưng không quyết định thị trường chứng khoán
Khi lãi suất chiết khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm
giảm lượng cung tiền nhằm mục đích duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng
làm cho việc vay tiền của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên đắt hơn,
nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh
doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp,
khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho
thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với
giá chứng khoán và có rất nhiều yếu tố đáng lưu tâm tác động lên giá
chứng khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi
suất chiết khấu chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể
tự tin nói rằng một công bố gia tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung ương có thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.
Dưới đây là biểu đồ diễn biến của mức lãi suất tái chiết khấu và chỉ số S&P500.
[img]http://icedrakin.wordpress.com/DOCUME%7E1/ICEDRA%7E1/LOCALS%7E1/Temp/moz-screenshot-1.jpg">
-
09-04-2009, 12:00 PM #20Guest
Nước Mỹ nợ những ai ?
Chính
phủ Mỹ đã, đang và sẽ phải chi tiêu lớn để giúp ổn định nền kinh tế,
điều này có nghĩa là nước này sẽ phải có một lượng tiền mặt lớn để chi
trả cho các khoản đó.
Và việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một trong các công cụ huy động nguồn tiền cho nước này.
Đối
với các nhà đầu tư, kỳ phiếu, trái phiếu được xem là sản phẩm tài chính
an toàn với khoản lợi tức khi đến kỳ quyết toán. Việc phát hành trái
phiếu Chính phủ Mỹ đã khiến nước này nợ 11.009,25 tỷ USD, tương đương
77% GDP của Mỹ năm 2008 và số nợ trên vẫn tăng hàng ngày (từ trái tức).
Một câu hỏi được nhiều người quan tâm là những "ai" đang nắm giữ nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ nhất?
1. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi chủ nợ lớn nhất của nước Mỹ chính là nước Mỹ!
Hệ
thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và các tổ chức thuộc
Chính phủ nắm giữ số trái phiếu trị giá 4.806 tỷ USD. Trong một thông
báo mới đây, FED cho biết có thể sẽ tăng mức độ sở hữu thêm số trái
phiếu trị giá 1.000 tỷ USD.
Được biết, cách đây một thập kỷ, FED và các tổ chức thuộc Chính phủ “chỉ” nắm giữ số trái phiếu trị giá 2.500 tỷ USD.
2.
Theo số liệu của FED, các quỹ tương hỗ (mutual funds) hiện đang nắm giữ
số lượng trái phiếu Chính phủ Mỹ lớn thứ hai, với giá trị trái phiếu
nắm giữ lên đến 769,1 tỷ USD.
3.
Trung Quốc đại lục - chủ nợ lớn nhất và quan trọng nhất ngoài biên giới
nước Mỹ - đang sở hữu lượng trái phiếu Chính phủ Mỹ với giá trị 739,6
tỷ USD, trong đó riêng đặc khu Hồng Kông mua 71,7 tỷ USD. Từ tháng
9/2008 đến tháng 1/2009, Trung Quốc đã mua thêm trái phiếu với giá trị
120 tỷ USD.
4.
Nhật Bản không chỉ là một đối tác thương mại hàng đầu mà cũng là chủ nợ
quan trọng của Mỹ, với các khoản đầu tư 634,8 tỷ USD để nắm giữ trái
phiếu Chính phủ Mỹ. Tính đến trước tháng 1/2008, Nhật nắm giữ trái
phiếu của Mỹ nhiều nhất so với các nước khác, nhưng đến nay, Trung Quốc
đã chiếm vị trí này.
5.
Theo số liệu của FED, chính phủ các bang và chính phủ liên bang đang sở
hữu hơn 500 tỷ USD giá trị nợ của Chính phủ Mỹ. Trong 3 năm qua, mức
đầu tư dao động từ 516,9 tỷ USD đến 550,3 tỷ USD.
6.
Các quỹ hưu trí (pension funds) đang nắm giữ một lượng tiền lớn và
thường có chiến lược đầu tư vào danh mục đầu tư có tính an toàn cao.
Các quỹ hưu trí của tư nhân và Chính phủ đang nắm giữ số trái phiếu trị
giá 456,4 tỷ USD.
7.
Các nhà đầu tư cá nhân, các doanh nghiệp được Chính phủ đỡ đầu, nhà môi
giới, nhà buôn, các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận đang nắm giữ
413,2 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ.
8.
Các nước xuất khẩu dầu thô như Ecuador, Venezuela, Indonesia, Bahrain,
Iran, Iraq, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia, Các tiểu vương quốc Arab
thống nhất, Algeria, Gabon, Libya và Nigeria đang nắm giữ tổng cộng
186,3 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ, tăng 45,5 tỷ USD so với
một năm trước đó.
9.
Các định chế tài chính ở khu vực Caribbe như Bahamas, Bermuda, Cayman
Islands, Netherlands Antilles, Panama và British Virgin Islands đang
nắm giữ số trái phiếu Chính phủ Mỹ trị giá 176,6 tỷ USD, tăng 67,4 tỷ
USD so với tháng 1/2008.
10.
Brazil hiện đang nắm giữ 133,5 tỷ USD trái phiếu Chính phủ Mỹ. Trong
tháng 6/2008, nước này nắm giữ 158 tỷ USD trái phiếu, sau đó giảm mức
nắm giữ xuống 127 tỷ USD vào tháng 12/2008.
11.
Các công ty bảo hiểm - bao gồm công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm
nhân thọ - trên toàn cầu hiện đang nắm giữ 126,4 tỷ USD trái phiếu
Chính phủ Mỹ.
12. Nước Anh hiện đang nắm giữ 124,2 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ, giảm mạnh so với mức 279 tỷ USD trong năm 2008.
13.
Tính đến tháng 1/2009, Nga đã đầu tư nắm giữ các tài sản nợ của Chính
phủ Mỹ tổng cộng 119,6 tỷ USD, tăng 330% so với cùng kỳ năm 2008.
14.
Tính đến quý 4/2008, các tổ chức nhận tiền gửi như ngân hàng tiết kiệm,
ngân hàng thương mại và liên minh tín dụng đang nắm giữ 107,3 tỷ USD nợ
Chính phủ Mỹ.
15.
Luxembourg - một nước có diện tích và dân số nhỏ ở châu Âu - hiện cũng
đang nắm giữ 87,2 tỷ USD trái phiếu Chính phủ Mỹ. Trong 12 tháng qua,
nước này đã mua vào từ 66,1 - 104,7 tỷ USD giá trị trái phiếu.
*
Số liệu trong bài được trích nguồn từ Bộ Tài chính Mỹ, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED), các cơ quan quản lý nợ của Chính phủ Mỹ và hãng tin CNBC.
Các Chủ đề tương tự
-
Offline Câu lạc bộ PTKT Vietstock Tháng 04/2015 Chủ đề: Những kinh nghiệm thú vị 2014 và Triển vọng 2015
Bởi lehuan_138 trong diễn đàn Tin tức & Tài liệu CLB Phân tích kỹ thuậtTrả lời: 0Bài viết cuối: 03-04-2015, 11:10 AM -
Kinh nghiệm để thắng 80% order
Bởi trong diễn đàn Forex và Hàng hóaTrả lời: 0Bài viết cuối: 02-10-2013, 05:19 AM -
Chủ đề: kinh nghiệm bán tiền cổ đã giúp thoát khỏi vni rơi 520 về 420 thế nào?
Bởi vietdutravel trong diễn đàn CLB Chứng khoánTrả lời: 9Bài viết cuối: 21-11-2010, 04:20 AM -
Những bài học kinh nghiệm; thất bại và thành công của những NĐT?
Bởi trong diễn đàn Kiến thức Chứng khoánTrả lời: 1Bài viết cuối: 19-10-2010, 10:20 AM -
Mỹ: Dấu hiệu phục hồi kinh tế đã xuất hiện nhưng thất nghiệp vẫn còn cao
Bởi imported_thaonguyenxanh2017 trong diễn đàn Nhận định Thị trườngTrả lời: 0Bài viết cuối: 05-09-2009, 05:41 AM
Khu căn hộ chung cư Charm City Bình Dương xây dựng bởi Công ty TNHH DCT Partner Việt Nam không gian thiên nhiên tầm nhìn đẹp đảm bảo an toàn. bán căn hộ Charm City Bình Dương không gian thiên nhiên...
Charm City Bình Dương đầu tư giá...