Hello and welcome to our community! Is this your first visit?
Kết quả 1 đến 3 của 3
  1. #1
    Ngày tham gia
    Feb 2023
    Bài viết
    214


    Chào các Đại Tiền Bối, em vừa đọc xong cuốn sách, ko hiểu phần sau, mong các anh chị em, chỉ dùm em:


    P/BV là như thế nào ? Chức năng trên thị trường ck để làm gì, có dựa vào chỉ số này tính được gì cho tương lại hay hiện tại ko ?



    Chúc một ngày lạm việc vui vẻ

  2. #2
    Ngày tham gia
    May 2019
    Bài viết
    0
    Hệ số Khấu trừ nợHệ số P/BV = thị giá trên giá trị của công ty theo tính toán sổ sách (tài sản của công ty trừ đi các khoản nợ và các khoản mà công ty phải chi trả) là một chỉ số quan trọng nữa. Ví dụ, nếu giá trị của công ty theo thị giá là 2 tỷ USD và giá trị của công ty theo tính toán sổ sách là 1 tỷ đô, thì P/BV =2.Nếu chỉ số P/BV không lớn lắm, thì đây là tín hiệu an toàn cho sự đầu tư của bạn. Vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, khi thị trường chứng khoán của Mỹ như quả bóng căng khí, chỉ số P/BV trung bình của S&P 500 (500 công ty thuộc Standard & Poor) rất cao và bằng 4,5. Giá trị của cổ phiếu được đánh giá cao quá mức, BV thì thấp vì những khoản nợ lớn. Khi quả bóng xì hơi, nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng, cổ phiếu giảm giá, nhiều công ty phải cải tổ lại và tích cực hoàn trả những món nợ. Trong những năm gần đây P/BV của S&P 500 xấp xỉ 3,1.“Phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty mà chỉ số P/BV có thể rất có ý‎ nghĩa hoặc không có ‎ý nghĩa mấy trong việc đánh giá cổ phiếu do công ty đó phát hành. BV rất quan trọng khi đánh giá những công ty hoạt động trong các lĩnh vực tài chính nhưng hầu như không có‎ ý nghĩa gì đối với những hãng sản xuất phần mền. Trong BV không tính đến giá trị của các bằng sáng chế, thương hiệu cũng như không phản ánh những thành tựu của công ty trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng như kinh nghiệm thiết kế và khả năng sáng tạo của các nhân viên có nghĩa tất cả những yếu tố đóng vai trò sống còn đối với các hãng công nghệ và dược phẩm. Đối với những công ty này, thông thường BV rất thấp còn P/BV lại rất cao”, Terri O’Connor, người lãnh đạo Quỹ Cedar Creek, nói.Ngoài lĩnh vực tài chính, chỉ số P/BV còn quan trọng khi bạn đánh giá các công ty hoạt động trong một số lĩnh vực khác, ví dụ như xây dựng.Chỉ số thị giá công ty chia cho doanh số bán hàng của công ty đó (Price/Sales) cũng hay được sử dụng khi đánh giá triển vọng của cổ phiếu. Một số nhà phân tích thị trường chứng khoán thường thích những công ty có doanh số bán hàng cao. Nếu một công ty có thị giá là 500 triệu USD và doanh số bán hàng là 1 tỷ USD thì chỉ số này sẽ bằng 0,5.Tuy nhiên, bạn cần phải lưu ý, doanh số lớn chưa chắc đã đồng hành với lợi nhuận cao. Vì vậy, những công ty có chỉ số P/S thấp cần phải có kế hoạch tăng lợi nhuận, còn bằng không cổ phiếu của công ty đó sẽ hạ.
    (Theo Bwportal)


    Mình chỉ search trên Google thôi. Chúc thành công!

  3. #3


    Đây là một bài phân tích rất hay , Mời các bác hãy tham khảo và bổ xung thêm

    Chỉ số P/E

    Đây
    là chỉ số phản ánh mối quan hệ giữa thị giá (giá thị trường cổ phiếu
    hiện hành) cổ phiếu với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty.

    Lấy
    ví dụ từ báo cáo tài chính của Ngân hàng A' Châu (ACB). Lợi nhuận sau
    thuế năm 1999 của ACB là 51.564 triệu đồng, chia cho tổng số cổ phiếu
    được: 151,025 đồng. Giá thỏa thuận mua bán cổ phiếu ACB (trên thị
    trường không chính thức) mới đây là 1,7 triệu đồng, vậy P/E của ACB
    bằng 1.700.000 : 151,025 = 11,25 lần.

    Chỉ số này được dùng khá
    phổ biến như một công cụ để nhà đầu tư xem xét mình qua chứng khoán rẻ
    hay đắt. P/E càng cao nghĩa là chứng khoán mua càng cao và ngược lại.
    Mặt khác, nhà đầu tư có thể mua với P/E giá cao để hy vọng trong tương
    lai lợi nhuận công ty cao thì P/E lúc đó lại thấp như ví dụ dưới đây:
    lợi nhuận năm 1999 của một công ty bánh kẹo là 12,7 tỷ , P/E là 3,4 ;
    lợi nhuận 2000 là 14,5 tỉ , P/E là 2,9 .

    Nhà đầu tư mua cổ phiếu
    với P/E là 3,4 lần so với lợi nhuận là 12,7 tỉ của năm 1999. Nếu năm
    2000 lợi nhuận là 14,5 tỉ thì nhà đầu tư mua với P/E chỉ còn 2,9 lần do
    lợi nhuận của công ty đã tăng lên và nếu năm 2001 lợi nhuận tăng nữa
    thì lúc này P/E sẽ giảm nữa, khi đó nhà đầu tư này muốn bán ra cho nhà
    đầu tư khác và khi nhìn vào thì thấy tại sao nhà đầu tư trước mua P/E
    3,4 lần thì mình cũng mua 3,4 lần được chứ. Thế là hoàn tất thương vụ!
    Nhà đầu tư trước bán được P/E là 3,4 lần (hoặc cao hơn nếu người mua
    mới chấp nhận) so lợi nhuận năm 2000 thì có nghĩa là họ bán cao hơn so
    với giá mà họ mua vào năm 1999 .

    Vấn đề là P/E bao nhiêu lần thì hình thành cuộc chơi này, ở đây có hai trường hợp xảy ra:
    • Nếu nhà đầu tư chấp nhận P/E cao thì rủi ro có thể cao do mua giá cao so với lợi nhuận công ty đạt được.

    Mặt khác mua P/E cao cũng có thể rủi ro thấp, vì lúc đó công ty mua vào
    có thể là công ty có giá như công ty Coca Cola hay Hàng không Việt Nam
    chẳng hạn, các công ty này phát triển rất ổn định .
    Từ đó mới hình
    thành một biên độ chỉ số P/E cho từng loại công ty, từng lĩnh vực công
    nghiệp và từng môi trường của thị trường. Theo xu hướng trên thị trường
    chứng khoán các nước trên Thế giới thì lĩnh vực sau đây thường chấp
    nhận các chỉ số P/E cao (không kể các tập đoàn hùng mạnh): ngân hàng,
    tài chính chứng khoán, công nghệ tin học, viễn thông, công nghệ sinh
    học, các ngành sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.

    Hiện nay (thời
    gian nào?), các chuyên viên tài chính Việt Nam nhận định P/E tại thị
    trường Việt Nam từ 8 - 15 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân
    hàng hoặc các công ty có uy tín thì P/E tại thị trường Việt Nam từ 10 -
    15 lần và những lĩnh vực khác có thể dưới 10.

    Tuy nhiên, bạn hãy
    cứ nghĩ xem, nếu công ty không có lợi nhuận điều đó có nghĩa là lợi
    nhuận âm, thì thị giá cổ phiếu chia cho lợi nhuận trong một năm là con
    số âm thì làm sao mà có chỉ số P/E được .

    Do đó, P/E chỉ là một
    số tương đối, nhà đầu tư cũng cần phải đánh giá thêm các chỉ số tài
    chính khác có liên quan mang tính kỹ thuật nhiều hơn.

    Phân tích EPS

    EPS
    có thể hiểu đơn giản là một chỉ số nhằm đánh giá bản thân công ty tạo
    khả năng sinh lời từ đồng vốn của cổ đông đáng góp. Đây là chỉ số đánh
    giá trực tiếp phản ánh hoàn toàn nội tại của công ty về khả năng tạo ra
    lợi nhuận ròng (lợi nhuận có thể dùng chi trả cho cổ đông) trên một cổ
    phần mà cổ đông đóng góp vốn chứ không từ việc lên hay xuống giá cổ
    phiếu công ty trên thị trường chứng khoán. Chỉ số EPS càng cao thì công
    ty tạo ra lợi nhuận cổ đông càng lớn và ngược lại. Ví dụ, nếu đạt 5.000
    đồng trên một cổ phần thì điều đó có nghĩa là công ty tạo ra lợi nhuận
    là 5% trên vốn góp cổ đông (giả sử mệnh giá một cổ phần là 100.000
    đồng).

    Như vậy, nếu một công ty chỉ đạt EPS khoảng 8 - 9% một
    năm thì chỉ bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng thì bạn có nên mua không,
    đó là điều bạn phải cân nhắc trước khi quyết định đầu tư. Nếu bạn mua
    thì có hai trường hợp xảy ra:
    • Một là bạn biết và hy vọng là công
    ty trong thời gian tới có thể tăng lợi nhuận do nhiều lý do như công ty
    đang mở rộng thị trường, đưa vào thị trường sản phẩm mới, nâng cấp bộ
    máy quản lý đạt hiệu quả hơn... Đây là một quyết định phản ánh thực tế
    công ty.
    • Hai là bạn thấy rằng trên thị trường chứng khoán, tâm
    lý các nhà đầu tư khác quan tâm nhiều đến việc mua cổ phiếu công ty này
    có thể có lý do là công ty được ưa chuộng, có ngành nghề kinh doanh
    "hợp thời" ví như cơn sốt của công ty dot com ( công ty Internet) trên
    thế giới vậy .
    Nói tóm lại, nếu công ty đạt được mức EPS từ 15% - 35
    % là tỉ lệ tương đối phổ biến tại Việt Nam, nó phản ánh tính ổn định
    trong hoạt động kinh doanh và giá vốn chấp nhận được của thị trường
    vốn. Ví dụ các công ty cổ phần dưới đây :

    Công Ty( Năm 1999 ) EPS (đồng) EPS (%)
    Ngân hàng ABC 151.000 15,1
    Cty CP Văn hóa Phương Nam 24.500 24,5
    Cty Bánh kẹo BIBICA 50.800 50,8
    Cty CP SACOM 21.000 21
    Cty CP REE 5.300 5,3


    Đánh giá tỷ lệ ROE

    Làm
    thế nào nhà đầu tư đánh giá được khả năng sinh lợi của đồng vốn sở hữu
    cổ đông để có thể thấy được một đồng vốn tạo khả năng bao nhiêu đồng
    lời và tỷ lệ sinh lời của nó để quyết định đầu tư công ty X này mà
    không đầu tư vào công ty Y khác có cùng ngành nghề?.

    Chúng ta đã
    tìm hiểu chỉ số EPS, có liên quan mật thiết đến việc xác định khả năng
    sinh lời của công ty trên một cổ phần mà nhà đầu tư mua vào. Chỉ số này
    chưa phản ánh một cách chính xác khả năng sinh lời từ toàn bộ vốn sở
    hữu cổ đông mà vốn này ngoài vốn góp cổ đông dưới dạng cổ phần còn bao
    gồm có thể là lợi nhuận để lại các quỹ phát triển kinh doanh, chênh
    lệch phát hành... Phản ánh khá chính xác các khả năng đó chính là ROE
    (return on equity) trị giá biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm (%).

    Trị
    giá ROE được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng (net income) theo niên
    độ kế toán (từ 1 tháng 1 đến 31 tháng 12) sau khi đã trả cổ tức cho cổ
    phần ưu đãi nhận cổ tức nhưng trước khi chi trả cổ tức cho cổ phần
    thường chia cho toàn bộ vốn chủ sở hữu, tức tài sản ròng (xin xem bài
    chỉ số NAV là gì?) vào lúc đầu niên độ kế toán.

    Chỉ số này là
    thước đo chính xác nhất để bạn đánh giá một đồng vốn của cổ đông bỏ ra
    và tích luỹ được (có thể lợi nhuận để lại) tạo ra bao nhiêu đồng lời.
    Từ đó nhà đầu tư có cơ sở tham khảo khi quyết định mua công ty X hay
    công ty Y có cùng ngành nghề với nhau.

    Tỷ lệ ROE càng cao chứng
    tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, điều này có nghĩa
    công ty cân đối một cách hài hoà giữa đồng vốn cổ đông với đồng vốn vay
    (vì nếu vay nhiều thì phải trả lãi vay làm giảm lợi nhuận) để khai thác
    lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường để tăng doanh thu, tăng lợi
    nhuận.

    Tỷ lệ này giúp cho nhà đầu tư đánh giá công ty ở góc độ như sau:


    Khi công ty chỉ đạt tỷ lệ ROE tương đương với lãi vay ngân hàng (khoảng
    10%/năm) thì ở mức độ đánh giá tương đối, bạn hãy xem lại khả năng sinh
    lời của công ty này vì nếu công ty nào cũng chỉ sinh lời ở mức này thì
    sẽ không có công ty nào đi vay ngân hàng vì lợi nhuận từ vốn vay chỉ đủ
    để trả lãi vay ngân hàng. Tất nhiên ở đây chỉ đặt trường hợp công ty
    chưa vay ngân hàng.
    • Khi công ty đạt tỷ lệ ROE cao hơn lãi vay
    ngân hàng thì bạn nên tìm hiểu xem công ty đã vay ngân hàng và khai
    thác hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá
    công ty có tiềm năng tăng tỷ lệ này hay không trong tương lai. Nếu còn
    mở rộng được thị phần thì cần thêm vốn, vốn này có thể vay và công ty
    vẫn có thể có lời sau khi trả lãi cho khoảng vốn vay này.
    Tuy nhiên,
    vay vốn ngoài việc trả lãi còn phải trả gốc cho nên ảnh hưởng rất nhiều
    đến yếu tố thanh khoản công ty, vì vậy cân đối vốn vay và vốn cổ đông
    cũng là bài toán quản lý của công ty.
    • Ngoài ra, tỷ lệ này cũng
    giúp cho nhà đầu tư đánh giá các công ty trong cùng một ngành nghề để
    ra quyết định lựa chọn đầu tư một trong số các công ty có cùng ngành
    nghề đó, phương thức lựa chọn tất nhiên vẫn là tỷ lệ ROE cao, vì như đã
    nói ở trên thì ROE của công ty càng cao thì có khả năng tăng lợi thế
    cạnh tranh càng mạnh, khi đó lợi thế cạnh tranh của các công ty khác sẽ
    bị giảm xuống.

    Dưới đây là bản đánh giá ROE của một số công ty:

    Tên CTY Ngành nghề ROE 1999 (%)
    Sacombank Ngân hàng 11,53%
    Ngân hàng TMCP á Châu Ngân hàng 13,95%
    Procter & Gamble (Mỹ) Hàng tiêu dùng 32%
    Unilever Plc (Anh) Hàng tiêu dùng 55%


    Phân tích chỉ số lợi suất - tỉ suất sinh lời (Yield) để đầu tư chứng khoán

    Chỉ
    số Current Yield (Tỷ suất thu nhập trên thời giá cổ phần) là một công
    cụ giúp nhà đầu tư tự quyết định cho mình nên chọn đầu tư vào doanh
    nghiệp nào?...

    Chỉ số Current Yield (Hay người ta thường gọi là
    Yield) là gì? Đây là chỉ số dùng để phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức
    nhà đầu tư nhận được từ công ty với giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào
    nó là tỷ lệ cổ tức mà cổ đông nhận được trên giá chứng khoán mà cổ đông
    đó mua vào

    - Phân tích mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận
    được từ công ty và giá nhà đầu tư mua cổ phiếu, chúng ta thấy có hai
    trường hợp sau đây

    + Trường hợp 1: Nếu nhà đầu tư mua
    chứng khoán xong rồi chờ chứng khoán lên giá để hưởng chênh lệch gọi là
    lãi vốn (capital gain) thì nhà đầu tư sẽ không quan tâm gì nhiều đến
    Yield. Lúc này Yield không có ý nghĩ gì thực sự quan trọng với họ so
    với các chỉ số P/E, EPS như đã đề cập trong bài trước

    Trong
    trường hợp này, các nhà đầu tư đã phân tích mối quan hệ giữa Yield và
    EPS. Nếu Yield thấp, EPS cao thì họ hy vọng công ty sử dụng phần lợi
    nhuận để tái đầu tư tăng lợi nhuận cho các năm tiếp theo giúp P/E giảm.
    Lúc này họ dễ dàng bán lại cổ phiếu với P/E cao để có lãi vốn

    + Trường hợp 2:
    Nếu nhà đầu tư mua chứng khoán để đầu tư lâu dài (như để mua làm của)
    thì tất nhiên họ sẽ quan tâm tới việc thu lợi nhuận hàng năm, hàng quý.
    Lúc này chỉ có cổ tức họ thu được. Khi đó Yield là mục tiêu chính để họ
    quan tâm.

    Khi công ty chia cổ tức cao có nghĩ là không cần sử
    dụng lợi nhuận để lại có thể do: công ty sử dụng vốn vay công ty chưa
    có kế hoạch mở rộng sản xuất hoặc thị phần công ty đã bão hoà. Khi đó
    lợi nhuận không được dự đoán tăng nhiều trong năm tới đồng nghĩa P/E
    không giảm nhiều dẫn đến việc các nhà đầu tư không hy vọng sẽ tăng giá
    cổ phiếu của mình trong tương lai.

    Thông thường lợi nhuận thu
    được từ cổ tức công ty trả thấp hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ
    việc bán cổ phiếu. Ví dụ như công ty Cơ điện lạnh (REE) từ ngày cổ phần
    hoá đến nay cổ tức nhà đầu tư nhận được chỉ là 283% trên mệnh giá cổ
    phần (một trăm ngàn đồng) trong khí đó tăng giá cổ phiếu là 1350% có
    nghĩa tăng 4,7 lần. Do vậy đối với các nhà đầu tư chứng khoán trên thị
    trường thì điều quan tâm duy nhất của họ chỉ là lãi vốn có nghĩa trong
    Đại hội c ổ đông hàng năm để quyết định chia cổ tức thì họ thường bỏ
    phiếu không chia cổ tức nhiều.

    Nói tóm lại khi đầu tư bạn nên
    tìm hiểu và đánh giá hết các loại chỉ số phân tích để có một cái nhìn
    tổng thể hơn mối quan hệ của các chỉ số này đẻ ra quyết định đầu tư cho
    chính xác. Kỳ sau chúng tôi sẽ giúp bạn đi sâu phân tích thêm các mối
    quan hệ giữa tài sản công ty và tài sản cổ đông để bạn không nhầm lẫn
    giữa cái bề thế bên ngoài và cái bản chất tài sản thật bên trong của
    công ty.


    Chỉ số NAV (Net Asset value) là gì?Cách tính NAV và đánh giá chỉ số một cách khách quan

    Chỉ
    số NAV có liên quan mật thiết đến việc xác định giá trị tài sản công ty
    và tài sản cổ đông. Từ đó nhà đầu tư sẽ không bị nhầm lẫn giữa cái bề
    thế bên ngoài và cái bản chất taìi sản thật bên trong của công ty.

    Thông
    thường nguồn vốn công ty cấu thành chính bởi nguồn vốn sở hữu của cổ
    đông và nguồn vốn vay. Các nguồn vốn nay tạo cho công ty các tài sản
    như: máy móc thiết bị, nhà xưởng... và các tài sản lưu động khácphục vụ
    cho hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Do đó có lúc công ty có
    vốn cổ đông (hay gọi là vốn điều lệ) thấp như tài sản thể hiện bên
    ngoài lớn thì chưa chắc đó là tài sản hình thành từ vốn cổ đông đóng
    góp mà có thể một phần từ vốn vay. Nguồn vốn sở hữu của cổ đông được
    gọi là Giá trị tài sản thuần của công ty, giá trị này chính là chính là
    chỉ số NAV (Net Asset Value).

    Giá trị tài sản thuần NAV bao gồm:
    Vốn cổ đông (vốn điều lệ) vốn hình thành từ lợi nhuận để lại. Vốn chênh
    lệch do phát hành cổ phiếu ra công chúng cao hơn mệnh giá (Share
    Premlum) lỗ trong hoạt động kinh doanh và các quỹ dự trữ phát triển dự
    phòng.

    Người ta thường sử dụng chỉ số NAV/Share (giá trị thuần
    của mỗi cổ phiếu phát hành) để đánh giá trị cổ phiếu trên sổ sách và
    giá cổ phiếu mua vào chỉ số này được tính bằng cách lấy tổng giá trị
    vốn sở hữu (tổng tài sản trừ cho bất cứ tài sản vô hình nào trừ tất cả
    nợ và chứng khoán trái phiếu có quyền đòi ưu tiên) chia cho tổng số cổ
    phần phát hành.

    Chỉ số này giúp cho nhà đầu tư dánh giá công ty khi đầu tư ở một số khía cạnh như sau:

    Giả sử công ty có phần mệnh giá là 100.000 đồng mà NAV là 120.000 chẳng
    hạn thì có nghĩa là công ty đã tích luỹ vốn để sản xuất có thể từ nguồn
    lợi nhuận để lại phát hành chênh lệch... Như vậy nhà đầu tư mua cổ phần
    với giá 120.000 đồng thì họ vẫn mua đúng với giá trị thật trên sổ sách
    của nó.
    • Nếu NAV là 120.000 đồng nhưng lợi nhuận công ty đạt được
    cao thì nhà đầu tư cũng có thể mua cổ phiếu với giá cao hơn NAV để mong
    lợi nhuận gia tăng khi đó sẽ có chia cổ tức có tích luỹ và NAV sẽ tiếp
    tục tăng nữa trong thời gian tới.
    • Nếu NAV là 120.000 đồng nhưng
    công ty vẫn đang lỗ có nghĩa sẽ tiếp tục giảm NAV thì bạn có quyết mua
    với 120.000 đồng hay cao hơn không. Đây là quyết định khó khăn và rủi
    ro nhất nó phụ thuộc nhiều vào việc đánh giá phân tích của nhà đầu tư
    về công ty ở nhiều khía cạnh thông tin chính xác về công ty tương lai
    để quyết định. ở đây chỉ có một nguyên tắc đơn giản mà nhà đầu tư chấp
    nhận đầu tư đó là "lợi nhuận cao thì rủi ro cao".
    Nói tóm lại NAV là
    thước đo bảo thủ nhất để nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu của công ty
    theo giá trị thực của công ty. Trong thực tế điều chú trọng nhất vẫn là
    vấn đề "lợi nhuận" luôn được đặt lên hàng đầu vì đó là cơ sở chính để
    đánh giá khả năng sinh lời của việc sử dụng đồng vốn của công ty.


 

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •